CHƢƠNG 1 – TỔNG QUAN - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
CHƢƠNG 1 – TỔNG QUAN - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
CHƢƠNG 1 – TỔNG QUAN - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.1. Tình hình năng lƣợng thế giới<br />
<strong>CHƢƠNG</strong> 1 <strong>–</strong> <strong>TỔNG</strong> <strong>QUAN</strong><br />
Năng lượng đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế<br />
xã hội ở thế kỉ 21. Hơn 150 năm về trước, loài người đã khai thác và sử dụng dầu<br />
mỏ dù hết sức thô sơ. Ngày nay, với trình độ cao con người đã gần như tận dụng<br />
được hết các phân đoạn của dầu mỏ, biến chúng thành những sản phẩm hữu ích và<br />
dầu mỏ trở nên là một tài nguyên chiến lược quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào.<br />
Một nhược điểm lớn của dầu mỏ là nó không thể tái tạo, với tốc độ khai thác<br />
như hiện nay qua thì cạn kiệt nguồn tài nguyên chỉ còn là vấn đề thời gian. Tính đến<br />
năm 1930, đã có 17 tỷ thùng dầu được khai thác. Đến năm 1970, mỗi năm toàn thế<br />
giới khai thác 17 tỷ thùng dầu. Đến năm 1997, 807 tỷ thùng dầu đã được khai thác<br />
và còn lại khoảng 995 tỷ thùng dầu trong lòng đất.<br />
Nếu như tốc độ tiêu thụ dầu không đổi, như mức hiện nay, 24 tỷ thùng một<br />
năm, thì đến năm 2040 chúng ta sẽ không còn được dùng dầu nữa. Nhưng một thực<br />
tế là nhu cầu của chúng ta không ngừng tăng lên, khoảng 2%/năm, và nhu cầu sẽ<br />
vượt cung trước năm 2040.<br />
An ninh kinh tế, an ninh quốc gia liên quan chặt chẽ với an ninh năng lượng.<br />
Tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả năng lượng, <strong>nhiên</strong> liệu truyền thống hiện có như<br />
<strong>nhiên</strong> liệu hóa thạch, thủy năng, phát triển và sớm đưa vào khai thác cũng như sử<br />
dụng các nguồn năng lượng, <strong>nhiên</strong> liệu sạch như năng lượng nguyên tử, năng lượng<br />
mặt trời, năng lượng gió, <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> … để đảm bảo an ninh năng lượng,<br />
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường luôn là chính sách hàng đầu của từng quốc<br />
gia và toàn cầu trong chiến lược phát triển bền vững.<br />
1.2. Nhiên liệu diesel<br />
1.2.1. Nguồn gốc<br />
Nhiên liệu diesel (DF <strong>–</strong> diesel fuel) hay còn gọi là dầu diesel (DO <strong>–</strong> diesel<br />
oil) là <strong>nhiên</strong> liệu dùng cho động cơ diesel sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông,<br />
lâm, ngư nghiệp, trong hàng hải, giao thông,…<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 3
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
DO được sản xuất chủ yếu từ phân đoạn gasoil và là sản phẩm của quá trình<br />
chưng cất trực tiếp dầu mỏ. Phân đoạn diesel có khoảng nhiệt độ sôi 250 <strong>–</strong> 370�C,<br />
thành phần hiđrocacbon của phân đoạn này gồm: parafin, naphten, aromatic và<br />
olefin với số nguyên tử cacbon từ 12 <strong>–</strong> 18 [13].<br />
Tỷ lệ nguyên tố trong <strong>nhiên</strong><br />
C<br />
87<br />
liệu, % khối lƣợng<br />
H<br />
12,6<br />
Bảng 1.1: Một vài thông số về DO<br />
O<br />
0,4<br />
Khối lƣợng<br />
phân tử, g/mol<br />
Số nguyên<br />
tử cacbon<br />
Nhiệt độ chƣng<br />
cất, �C<br />
180 ÷ 200 12 ÷ 18 200 ÷ 300<br />
DO là loại <strong>nhiên</strong> liệu lỏng, nặng hơn dầu lửa và xăng, được sử dụng chủ yếu<br />
cho động cơ diesel, các tuabin khí và các loại động cơ đốt trong khác.<br />
Những yêu cầu đối với <strong>nhiên</strong> liệu diesel:<br />
- Đảm bảo cấp <strong>nhiên</strong> liệu liên tục và tin cậy vào buồng cháy, phù hợp với<br />
quá trình làm việc của động cơ.<br />
- Có khả năng tự cháy và bay hơi phù hợp để động cơ khởi động dễ dàng, có<br />
tốc độ tăng áp suất xi lanh không quá lớn và có tốc độ cháy đủ lớn.<br />
- Ít đóng cặn trong hệ thống cấp <strong>nhiên</strong> liệu và trong xi lanh.<br />
- Có tính ăn mòn thấp.<br />
Để đánh giá chất lượng diesel, người ta phải xác định trên dưới 20 chỉ tiêu kỹ<br />
thuật khác nhau. Một số chỉ tiêu ảnh hưởng đến quá trình làm việc và độ tin cậy của<br />
động cơ, các chỉ tiêu còn lại xác định khả năng sử dụng <strong>nhiên</strong> liệu trong các điều<br />
kiện khí hậu khai thác khác nhau.<br />
1.1.2. Tính chất <strong>nhiên</strong> liệu diesel<br />
1.1.2.1. Trị số cetan<br />
Khả năng tự bốc cháy là đại lượng đặc trưng quan trọng nhất của <strong>nhiên</strong> liệu<br />
diesel, được biểu thị bằng trị số cetan (kí hiệu là: CN <strong>–</strong> Cetan Number).<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 4
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Trị số cetan của <strong>nhiên</strong> liệu là một đại lượng quy ước, có giá trị đúng bằng tỷ<br />
số phần trăm thể tích (%V) của cetan (n-hexadecan C16H34) trong hỗn hợp với<br />
�-metyl naphtalen (C10H7CH3) mà khả năng tự bốc cháy của hỗn hợp ấy tương<br />
đương với khả năng tự bốc cháy của <strong>nhiên</strong> liệu DO trong những điều kiện thử<br />
nghiệm tiêu chuẩn, n-cetan có công thức cấu tạo mạch thẳng. Chất này dễ tự cháy,<br />
quy ước có chỉ số cetan bằng một trăm (CN = 100), �-metyl naphtalen có cấu tạo<br />
hai vòng thơm với một nhóm thế metyl ở vị trí �. Chất này rất khó tự cháy, có nhiệt<br />
độ tự cháy cao, quy ước có chỉ số cetan bằng không (CN = 0) [13]. Hỗn hợp hai<br />
chất này có chỉ số cetan bằng phần trăm thể tích của chất n-cetan trong hỗn hợp.<br />
Theo cấu trúc hóa <strong>học</strong>, parafin có chỉ số cetan lớn nhất, aromatic có chỉ số cetan bé<br />
nhất, isoparafin có chỉ số cetan trung bình. Chỉ số cetan của một số hiđrocacbon<br />
được trình bày trong Bảng 1.2.<br />
Yêu cầu về trị số cetan của động cơ diesel không quá cao. Đối với động cơ<br />
diesel tốc độ chậm (dưới 500 vòng/phút) chỉ số cetan trong khoảng 45 <strong>–</strong> 50, còn đối<br />
với tốc độ nhanh (từ 500 đến 1000 vòng/phút) chỉ số cetan trên 50.<br />
Trị số cetan không có ý nghĩa sống còn như trị số octan. Nó không hoàn toàn<br />
quyết định hiệu suất động cơ (liên quan đến độ nén), song <strong>nhiên</strong> liệu có trị số cetan<br />
thấp hơn yêu cầu có thể dẫn đến những khó khăn, trục trặc khi khởi động máy, gây<br />
nhiều tiếng ồn, đặc biệt là giảm tốc độ trong thời tiết lạnh, tạo ra khí thải chứa nhiều<br />
chất độc… Nói chung, <strong>nhiên</strong> liệu có trị số cetan càng cao càng dễ khởi động, song<br />
chỉ số cetan quá cao sẽ gây lãng phí <strong>nhiên</strong> liệu (do hiện tượng cháy không hoàn<br />
toàn). Ngoài chỉ số cetan là chỉ tiêu chính, người ta còn đánh giá chất lượng diesel<br />
bằng nhiều thông số khác: độ nhớt, tỷ trọng, thành phần cất, nhiệt độ chớp cháy,<br />
hàm lượng lưu huỳnh, điểm đông đặc,… nhưng mỗi nước có nhiều tiêu chuẩn khác<br />
nhau phù hợp với điều kiện khí hậu của mỗi nước.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 5
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Bảng 1.2: Trị số cetan của một số hiđrocacbon<br />
Hiđrocacbon Công thức Trị số cetan<br />
n-dodecan C12H26 75<br />
3-ethyldecan C12H26 48<br />
4,5-diethyloctan C12H26 20<br />
n-hexadecan (cetan) C16H34 100<br />
7,8-dimethylhexadecan C16H34 41<br />
5-butyldohexan C16H32 47<br />
n-hexylbenzen C16H32 27<br />
n-heptylbenzen C13H20 36<br />
n-octylbenzen C14H22 51<br />
�-methylnaphtalen C11H10 0<br />
Butylnaphtalen bậc 3 C14H16 3<br />
Butyldecalin bậc 3 C14H26 24<br />
n-dodexylbenzen C18H30 60<br />
1.1.2.2. Độ nhớt của <strong>nhiên</strong> liệu diesel<br />
Độ nhớt quyết định khả năng lưu động và hóa sương của <strong>nhiên</strong> liệu, do đó<br />
cũng quyết định đặc tính cháy của <strong>nhiên</strong> liệu trong xi lanh.<br />
Cũng như đối với áp suất phun dầu, độ nhớt lớn sẽ ảnh hưởng xấu cho hoạt<br />
động bơm cao áp và phun kim. Ngược lại, nếu độ nhớt quá lỏng sẽ không làm kín<br />
tốt xi lanh piston bơm cao áp và kim phun, đồng thời <strong>nhiên</strong> liệu thiếu đặc tính bôi<br />
trơn, một yếu tố vô cùng quan trọng đối với bơm cao áp và kim phun <strong>nhiên</strong> liệu. Vì<br />
vậy, độ nhớt của <strong>nhiên</strong> liệu diesel phải được chọn sao cho thích hợp với cấu trúc<br />
của động cơ đã thiết kế sẵn, Bảng 1.3.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 6
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Bảng 1.3: Tiêu chuẩn <strong>nhiên</strong> liệu diesel của Mỹ [24]<br />
TT Chỉ tiêu Loại <strong>nhiên</strong> liệu<br />
1 <strong>–</strong> D 2 <strong>–</strong> D 3 <strong>–</strong> D<br />
1 Chỉ số cetan (min) 40 40 30<br />
2 Nhiệt độ phần cất 10%, �C, max 287 282 <strong>–</strong> 338 -<br />
3 Độ nhớt 37,8�C, Cst 1,4 <strong>–</strong> 2,5 2,0 <strong>–</strong> 4,3 5,8 <strong>–</strong> 26,4<br />
4 Cặn cacbon, % (max) 0,15 0,35 -<br />
5 Độ tro, % (max) 0,01 0,01 0,1<br />
6 Nhiệt độ chớp cháy, �C (min) 38 52 54<br />
7 Hàm lượng lưu huỳnh, % (min) 0,5 0,5 2,0<br />
1 <strong>–</strong> D động cơ tốc độ cao, làm việc trong những điều kiện thay đổi nhanh về<br />
tải trọng và tốc độ, động cơ vận hành ở nhiệt độ thấp; 2 <strong>–</strong> D động cơ xe tải hạng<br />
nặng, động cơ có tốc độ cố định và tải trọng rất lớn; 3 <strong>–</strong> D động cơ có vòng quay<br />
nhỏ, trung bình và không thay đổi.<br />
1.1.2.3. Thành phần cất<br />
Thành phần cất của <strong>nhiên</strong> liệu diesel được đánh giá bằng các nhiệt độ chưng<br />
cất. Đối với <strong>nhiên</strong> liệu diesel, người ta quan tâm đến nhiệt độ chưng cất 10%V,<br />
50%V, 90%V <strong>nhiên</strong> liệu.<br />
Nhiệt độ chưng cất 10%V <strong>nhiên</strong> liệu (t10%) là nhiệt độ tại đó 10% thể tích<br />
<strong>nhiên</strong> liệu được bay hơi. Nhiệt độ chưng cất 10%V đặc trưng cho các hiđrocacbon<br />
nhẹ, dễ bay hơi trong điều kiện xi lanh. Thực tế yêu cầu t10% không thấp hơn 200�C.<br />
Nếu t10% thấp hơn 200�C, chứng tỏ <strong>nhiên</strong> liệu diesel có hợp phần nhẹ cao, khi cháy<br />
sẽ làm tăng nhanh áp suất, dễ dẫn tới cháy kích nổ. Điều đó làm tăng áp lực của khí<br />
trong xi lanh. Động cơ làm việc với <strong>nhiên</strong> liệu như vậy thường có tiếng ồn lớn kèm<br />
theo dao động và cường độ ăn mòn chi tiết cao.<br />
Nhiệt độ chưng cất 50%V <strong>nhiên</strong> liệu (t50%) đặc trưng cho tính đồng đều của<br />
phân bố hiđrocacbon và tính bay hơi hoàn toàn trong quá trình tạo hỗn hợp, t50% ảnh<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 7
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
hưởng đến tính khởi động của máy, <strong>nhiên</strong> liệu có t50% thích hợp (không vượt quá<br />
280�C) sẽ khiến động cơ khởi động dễ dàng.<br />
Nhiệt độ chưng cất 90%V của <strong>nhiên</strong> liệu (t90%) dùng để đánh giá hàm lượng<br />
các hiđrocacbon khó bay hơi trong <strong>nhiên</strong> liệu. Các hiđrocacbon loại này làm giảm<br />
tốc độ bay hơi của <strong>nhiên</strong> liệu trong quá trình phun, làm tăng khả năng bay hơi<br />
không hoàn toàn cũng như cháy không hết của <strong>nhiên</strong> liệu. Như vậy, tính kinh tế và<br />
công suất của động sẽ giảm, khả năng tạo muội trong buồng cháy và độ độc khí xảy<br />
ra cũng tăng. Tóm lại, t90% biểu thị khả năng cháy hoàn toàn của hơi <strong>nhiên</strong> liệu, t90%<br />
của <strong>nhiên</strong> liệu diesel không nên vượt quá 370�C.<br />
1.1.2.4. Một số tính chất khác<br />
Hàm lượng lưu huỳnh, nhiệt độ kết tinh, khả năng lọc được, ăn mòn tấm<br />
đồng, điểm đông đặc, điểm vẫn đục, chỉ số axit, nhiệt trị, điểm chớp cháy cốc kín,<br />
nước và tạp chất cơ <strong>học</strong>… là những tính chất quan trọng cần được chú ý đến. Cũng<br />
giống như xăng các nước đều có quy định cụ thể về yêu cầu đối với chất lượng<br />
diesel. Bảng 1.4 yêu cầu về chất lượng <strong>nhiên</strong> liệu diesel theo tiêu chuẩn Việt Nam<br />
5869:2005.<br />
Bảng 1.4: Tiêu chuẩn Việt Nam về <strong>nhiên</strong> liệu diesel TCVN 5869:2005 [18]<br />
Các chỉ tiêu<br />
Phƣơng pháp thử Mức quy định<br />
ASTM TCVN DO<br />
Trị số cetan (*) D4737 3180:2007 46 min<br />
Hàm lượng lưu huỳnh, mg/kg<br />
D 5453<br />
D 2622<br />
6701:2002 500 <strong>–</strong> 2500<br />
Nhiệt độ chưng cất �C, 90%V D 86 2698:2002 360 max<br />
Điểm chớp cháy cốc kín, �C<br />
D 3828<br />
D 93<br />
6608:2000 55 min<br />
Độ nhớt động <strong>học</strong> 40�C, mm 2 /s D 445 3171:2003 2 <strong>–</strong> 4,5<br />
Cặn cacbon của 10% cặn chưng cất, %<br />
khối lượng<br />
D 189<br />
D 4530<br />
6324:1997 0,3 max<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 8
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Điểm đông đặc, �C D 97 3753:1995 + 6 max<br />
Hàm lượng tro, % khối lượng D 482 2690:1995 0,01 max<br />
Hàm lượng nước và tạp chất cơ <strong>học</strong>,<br />
mg/kg<br />
D 6304 3182:2008 200 max<br />
Bụi gây ô nhiễm, mg/l D 2276 10 max<br />
Ăn mòn tấm đồng ở 50�C, 3 giờ<br />
D 130<br />
D 88<br />
2694:2000 Số 1 max<br />
Tính nhờn, �m D 6079 460 max<br />
Cảm quan D 4176 Sạch<br />
Khối lượng riêng ở 15�C, kg/m 3<br />
D 1298<br />
D 4052<br />
6594:2000 820 <strong>–</strong> 860<br />
(*) Phương pháp tính trị số cetan không áp dụng cho các loại <strong>nhiên</strong> liệu diesel có<br />
phụ gia cải thiện trị số cetan.<br />
1.2. Nhiên liệu biodiesel<br />
1.2.1. Khái niệm<br />
Thực ra <strong>nhiên</strong> liệu được Rudolf Diesel sử dụng để chạy động cơ diesel đầu<br />
tiên vào năm 1895 là dầu thực vật. Tuy <strong>nhiên</strong>, hiện nay “biodiesel” hay “diesel sinh<br />
<strong>học</strong>” (biodiesel fuel <strong>–</strong> thường viết tắt là BDF) là thuật ngữ dùng để chỉ loại <strong>nhiên</strong><br />
liệu dùng cho động cơ diesel được sản xuất từ dầu thực vật hay mỡ động vật.<br />
Biodiesel thường được điều chế bằng phản ứng transeste chuyển đổi hay este hóa<br />
của các triglixerit, axit tự do với rượu bậc nhất no đơn chức mạch từ C1<strong>–</strong>C4 [13],<br />
[52]. Vì vậy, biodiesel được xem là các ankyl este, thông dụng nhất là metyl este<br />
tạo thành từ dầu mỡ động thực vật. Các axit béo trong dầu, mỡ có số cacbon tương<br />
đương với các phân tử có trong DO, hơn nữa cấu trúc của những axit này là mạch<br />
thẳng nên chỉ số cetan cao [52]. Đó là lý do chính để chọn dầu thực vật, mỡ động<br />
vật làm nguyên liệu sản xuất biodiesel.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 9
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.2.2. Các tính năng khi sử dụng biodiesel<br />
● Ƣu, nhƣợc điểm về môi trƣờng của biodiesel<br />
Ưu điểm vượt trội của biodiesel là tính thân thiện với môi trường.<br />
- Nhóm nghiên cứu của giáo sư Chen Hu, Wang Jianxin, Shuai Shijin, Trung<br />
Quốc hệ phối trộn B5 (5% BDF + 95% DO), B20 (20% BDF + 80% DO) chạy thử<br />
nghiệm ở động cơ nặng tốc độ 1200 vòng/phút thì bụi lơ lửng giảm 25%, trong khi<br />
đó khí NOx thay đổi không đáng kể [39].<br />
- Trong biodiesel không chứa lưu huỳnh và hợp chất vòng thơm, do đó khi<br />
cháy không sinh ra khí thải độc hại [29], [46].<br />
- Sự hiện diện của oxi trong <strong>nhiên</strong> liệu cải thiện sự cháy và làm giảm sự phát<br />
thải hiđrocacbon, CO, CO2 và những khí thải độc hại ra môi trường [62].<br />
Nhóm nghiên cứu của giáo sư Y. Maeda, Nhật Bản [51] cũng kết luận là việc<br />
sử dụng biodiesel làm <strong>nhiên</strong> liệu thay thế giúp giảm bớt đáng kể ô nhiễm môi<br />
trường trong khí quyển (Bảng 1.5).<br />
Bảng 1.5: Mức độ giảm khí thải khi sử dụng biodiesel [51]<br />
Khí thải CO HC<br />
Bụi lơ<br />
lửng (PM)<br />
Muội<br />
than PAH CO2 NOx S<br />
Tỷ lệ giảm 67 30 68 50 85 100 ± 2 <strong>–</strong> 6 80 - 100<br />
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Phan Minh Tân và Phan Ngọc Anh cho<br />
thấy lượng hiđrocacbon (HC) không cháy và cacbon monoxit do biodiesel sinh ra<br />
giảm đáng kể so với <strong>nhiên</strong> liệu diesel truyền thống. Tuy <strong>nhiên</strong>, lượng NOx thì lại<br />
tăng nhẹ tùy theo loại <strong>nhiên</strong> liệu và cấu tạo của động cơ (Bảng 1.6) [43] .<br />
Bảng 1.6: Lượng khí thải biodiesel so với dầu diesel.<br />
Khí thải Đơn vị DO truyền thống BDF từ dầu nành BDF từ dầu thải<br />
NOx g 0,944 1,156 1,156<br />
CO g 0,230 0,136 0,156<br />
HC g 0,0835 0,004 0,0038<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 10
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Tuy <strong>nhiên</strong>, biodiesel phát thải nhiều khí NOx trong quá trình cháy do sự hiện<br />
diện của oxi và nitơ trong thành phần <strong>nhiên</strong> liệu.<br />
● Ƣu, nhƣợc điểm về mặt kỹ thuật của biodiesel<br />
- Độ nhớt tốt, giảm được hiện tượng mài mòn và va đập trong động cơ. Trị<br />
số cetan cao [15]<br />
- Không chứa lưu huỳnh nên trong quá trình cháy không tạo SO2 gây ăn mòn<br />
và tạo cặn trong buồng đốt [34], [57].<br />
- Điểm chớp cháy của biodiesel cao hơn dầu diesel [15] tạo sự an toàn trong<br />
quá trình vận chuyển và tồn trữ.<br />
- Biodiesel có thể phối trộn với dầu diesel theo mọi tỷ lệ [68].<br />
- Biodiesel có giá trị nhiệt lượng thấp hơn dầu diesel [68] dẫn đến tăng lượng<br />
tiêu hao <strong>nhiên</strong> liệu biodiesel [61].<br />
- Điểm đông đặc và điểm chảy cao gây khó khăn cho việc sử dụng <strong>nhiên</strong> liệu<br />
này ở những vùng có khí hậu lạnh [61].<br />
- Một số khảo sát gần đây cảnh báo về nguy cơ gây ăn mòn của dầu biodiesel<br />
cao hơn so với dầu diesel.<br />
● Ƣu, nhƣợc điểm về mặt kinh tế của biodiesel<br />
Sử dụng biodiesel làm <strong>nhiên</strong> liệu tạo sự chủ động cho những nước phải nhập<br />
<strong>nhiên</strong> liệu và tạo một hướng đi mới cho các sản phẩm nông nghiệp, cải thiện cán<br />
cân thương mại.<br />
Giá thành của Biodiesel hiện nay không thấp hơn là bao nhiêu so với dầu<br />
diesel truyền thống do giá thành cao của nguyên liệu. Vì chưa có sự đầu tư đáng kể<br />
về nguồn nguyên liệu và người dùng cũng chưa hoàn toàn tin tưởng vào sản phẩm<br />
này.<br />
1.2.3. Các tiêu chuẩn về BDF nguyên chất<br />
Tiêu chuẩn kỹ thuật của Mỹ và Việt Nam về <strong>nhiên</strong> liệu diesel sinh <strong>học</strong> gốc<br />
(B100) và các phối trộn <strong>nhiên</strong> liệu diesel <strong>–</strong> BDF được trình bày trong các Bảng 1.7<br />
đến Bảng 1.8.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 11
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Bảng 1.7: Tiêu chuẩn về BDF nguyên chất (B100) của Hoa Kỳ [61].<br />
Tính chất Phƣơng pháp thử Giới hạn Đơn vị<br />
Điểm chớp cháy D 93 130 min �C<br />
Nước và cặn D 2709 0,050 max % thể tích<br />
Độ nhớt động <strong>học</strong>, 40�C D 445 1,9 <strong>–</strong> 1,6 mm 2 /s<br />
Tro sunfat D 874 0,020 max % khối lượng<br />
Lưu huỳnh D 5453 0,0015 max % khối lượng<br />
Ăn mòn tấm đồng D 130 No. 3 max<br />
Trị số cetan D 613 47 min<br />
Điểm đục D 2500 - 15 ÷ 5 �C<br />
Cặn cacbon D 4530 0,050 max % khối lượng<br />
Chỉ số axit D 664 0,50 max mg KOH/g<br />
Glixerol tự do D 6584 0,020 % khối lượng<br />
Glixerol tổng D 6584 0,240 % khối lượng<br />
Hàm lượng photpho D 4951 0,001 max % khối lượng<br />
Nhiệt độ chưng cất D 1160 360 max �C<br />
Hàm lượng phospho D4951 0,001 max % khối lượng<br />
Bảng 1.8: Tiêu chuẩn về BDF nguyên chất (B100) của Việt Nam [19]<br />
Tính chất Phƣơng pháp thử Giới hạn Đơn vị<br />
Hàm lượng este TCVN 7868 96,5 min % khối lượng<br />
Nước và cặn TCVN 7757 0,050 max % thể tích<br />
Nhiệt độ chưng cất, 90%V ASTM D1160 360 max �C<br />
Ăn mòn tấm đồng ở 50�C, 3<br />
giờ, max<br />
TCVN 2694 Số 1<br />
Tỷ trọng 15�C TCVN 6594 860 <strong>–</strong> 900 Kg/m 3<br />
Độ nhớt động <strong>học</strong>, 40�C TCVN 3171 1,9 <strong>–</strong> 6,0 mm 2 /s<br />
Tro sunfat TCVN 2689 0,020 max % khối lượng<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 12
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Trị số cetan TCVN 7630 47 min<br />
Trị số axit TCVN 6325 0,50 max mg KOH/g<br />
Độ ổn định oxi hóa tại 110�C EN 14112 6 min Giờ<br />
Glixerol tự do ASTM D6584 0,020 max % khối lượng<br />
Glixerol tổng ASTM D6584 0,240 max % khối lượng<br />
Phospho ASTM D4951 0,001 max % khối lượng<br />
Hàm lượng lưu huỳnh TCVN 6701 0,05 max % khối lượng<br />
Điểm chớp cháy cốc kín TCVN 2693 130 min �C<br />
Thường trên thực tế không sử dụng BDF nguyên chất (B100) mà hay sử<br />
dụng các hệ phối trộn B5 (5% BDF + 95% DO) và B20 (20% BDF + 80% DO). B5<br />
và B20 có tính chất gần giống với dầu diesel nên không cần cải tiến, hiệu chỉnh<br />
động cơ. Theo tiêu chuẩn một số nước EU các thông số kỹ thuật của B5 giống với<br />
DO.<br />
1.3. Tình hình sản xuất và sử dụng biodiesel trên thế giới và Việt Nam<br />
Hiện nay, có nhiều quốc trên thế giới khai thác và sử dụng năng lượng sạch<br />
cụ thể là năng lượng sinh <strong>học</strong> ở các mức độ khác nhau gồm: dầu thực vật (ăn được<br />
và không ăn được), etanol, biodiesel,… Năm 2006, toàn thế giới sản xuất khoảng 50<br />
tỷ lít etanol (75% dùng làm <strong>nhiên</strong> liệu) so với năm 2003 là 38 tỷ lít, dự kiến năm<br />
2012 khoảng 80 tỷ lít, năm 2005 sản xuất 4 triệu tấn biodiesel (B100), năm 2010<br />
trên 20 triệu tấn biodiesel.<br />
Châu Âu là nhà sản xuất biodiesel lớn nhất thế giới và biodiesel là <strong>nhiên</strong> liệu<br />
quan trọng nhất ở EU, chiếm khoảng 80% tổng <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> ở liên minh này.<br />
Phần lớn biodiesel (khoảng 80%) được sản xuất từ hạt cải dầu. Còn lại được sản<br />
xuất chủ yếu từ dầu hướng dương và dầu đậu tương. Biodiesel có thị phần lớn là do<br />
ở EU xe ô tô động cơ diesel có số lượng lớn và thiếu hụt dầu diesel với tốc độ tăng<br />
trưởng hàng năm 28,2% kể từ năm 2008.<br />
Năm 2005 EU có 20 nước sản xuất biodiesel so với 11 nước sản xuất trong<br />
năm 2004. Sản lượng biodiesel năm 2005 đạt 2,9 triệu tấn so với 1,9 triệu tấn năm<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 13
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
2004 và 6,1 triệu tấn năm 2007, tăng 65% trong một năm. Các nước thành viên sản<br />
xuất biodiesel lớn nhất là Đức, Pháp, Italia. Tăng trưởng mạnh nhất là ở Đức, với<br />
sản lượng tăng từ 1,66 triệu tấn năm 2005 lên 3 triệu tấn năm 2007. Sản lượng<br />
biodiesel dự báo tăng mạnh ở Pháp và Italia.<br />
Ở Pháp, ước tính sản lượng sẽ tăng từ 370 ngàn tấn năm 2005 lên 550 ngàn<br />
tấn năm 2006 và 800 ngàn tấn năm 2007. Tháng 9/2005 chính phủ Pháp tuyên bố sẽ<br />
tăng cường sử dụng biodiesel và đạt tỷ lệ 5,75% vào năm 2008. Pháp đã đặt mục<br />
tiêu 7% biodiesel vào năm 2010 và 10% vào năm 2015.<br />
Ở Cộng Hòa Séc, metyl este cải dầu (RME) được dùng để phối trộn (31%<br />
RME + 69% DO)<br />
Ba Lan cũng rất quan tâm phát triển RME, hiện đã có một nhà máy hiện đại<br />
với công suất 150 nghìn tấn/năm. Ngoài ra, còn có một số công ty khác đang đặt kế<br />
hoạch xây dựng các nhà máy, mỗi nhà máy có công suất khoảng 50 <strong>–</strong> 250 nghìn tấn<br />
RME.<br />
Mexico có chiến lược phát triển cây dầu cọ và jatropha để cung cấp biodiesel<br />
dùng cho vận tải công cộng ở thủ đô và vùng nông thôn.<br />
Tại Archentina năm 2010 các nhà máy lọc dầu pha 5% etanol trong xăng và<br />
5% biodiesel vào dầu để bán trên thị trường.<br />
Tại Mỹ, biodiesel thương mại thường phối trộn chứa 20% BDF. Năm 2008,<br />
hiệp hội thử nghiệm và vật liệu Mỹ đã hoàn chỉnh bộ tiêu chuẩn cho <strong>nhiên</strong> liệu<br />
B6 <strong>–</strong> B20 biodiesel cho các động cơ diesel (giao thông và công nghiệp). Ngày<br />
10/8/2005 tổng thống Bush phê duyệt đạo luật năng lượng EPACT 2005 với rất<br />
nhiều điều khoảng hỗ trợ nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất, kinh doanh và sử dụng<br />
BDF. Hàng năm nước Mỹ tiêu dùng khoảng 142 tỷ gallon xăng dầu, tiêu thụ<br />
khoảng 25% tổng số dầu thế giới. Hiện nay, các loại xe của Mỹ có thể chạy bằng<br />
xăng pha trộn 10% etanol được chế tạo từ bắp. Tháng 1 <strong>–</strong> 2006, tổng thống Bush<br />
tuyên bố Mỹ cần thay thế 75% dầu nhập bằng những nguồn năng lượng hữu hiệu<br />
khác vào 2025, gồm cả <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong>. Ngày 19 <strong>–</strong> 12 <strong>–</strong> 2007, nước Mỹ đòi hỏi<br />
những nhà sản xuất sản xuất xăng dầu phải dùng ít nhất 36 tỷ gallon <strong>nhiên</strong> liệu sinh<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 14
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
<strong>học</strong> trong 2022, hay tăng gấp 5 lần mức dùng hiện nay. Năm 2007, 90% diện tích<br />
hoa màu dành cho năng lượng sinh <strong>học</strong> được trồng ở Mỹ: 7 triệu hecta bắp cho sản<br />
xuất etanol và 3,4 triệu hecta đậu nành cho sản xuất biodiesel.<br />
Canada là nước xuất khẩu dầu Canola. Công nghệ sản xuất BDF của Canada<br />
tập trung theo hướng làm sạch dầu thực vật bằng hiđro để tạo cetan sinh <strong>học</strong> rồi pha<br />
vào diesel, sản phẩm gọi là diesel xanh. Năm 2010, Canada sẽ dùng bioetanol 10%<br />
cho 45% tổng tiêu thụ <strong>nhiên</strong> liệu toàn quốc. Theo Biodiesel Bulletin (Volume 1,<br />
Issue 4, 5/2007) chính phủ Canada dành 2 tỷ đô la hỗ trợ phát triển năng lượng sinh<br />
<strong>học</strong>, trong đó 500 triệu dành cho nghiên cứu thế hệ mới của năng lượng sinh <strong>học</strong>.<br />
Trung Quốc xem <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> là một thành phần chiến lược quan<br />
trọng của phát triển kinh tế bền vững và tập trung sản xuất hai loại <strong>nhiên</strong> liệu: etanol<br />
và biodiesel. Năm 2010, Trung Quốc sẽ trồng 13 triệu hecta cây jatropha. Các nhà<br />
máy ở ba tỉnh phía Nam Trung Quốc năm 2006 đã sản xuất 50.000 m 3 biodiesel,<br />
năm 2007 riêng công ty Yunnan Shenyu New Energy đã trồng 20.000 hecta cây<br />
jatropha và xây một nhà máy sản xuất dầu jatropha thô và biodiesel với công suất<br />
100.000 tấn/năm. Hiện tại, <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> đạt khoảng một triệu tấn. Mục tiêu<br />
của Trung Quốc là sản xuất 12 triệu tấn <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> (bao gồm bioetanol và<br />
biodiesel) hàng năm vào năm 2020, đưa tỷ lệ <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> lên 15% tổng mức<br />
sử dụng <strong>nhiên</strong> liệu trong giao thông vận tải của cả nước. Nguyên liệu tiềm năng đầu<br />
vào để sản xuất biodiesel gồm có hạt cải dầu, hạt hướng dương, lạc, vừng, … Sản<br />
lượng biodiesel của Trung Quốc hiện tại khoảng hai triệu tấn.<br />
Ấn Độ là nước tiêu thụ dầu diesel lớn (40 triệu tấn hàng năm) đã có các đồn<br />
điền trồng cây jatropha ở những vùng đất khô cằn chỉ để cung cấp nguyên liệu sản<br />
xuất biodiesel nhằm mục tiêu đến năm 2010 thay thế khoảng 10% diesel dầu mỏ.<br />
Tại Malaixia đến năm 2015 sẽ có 5 nhà máy sản xuất biodiesel từ dầu cọ, với<br />
tổng công suất gần 1 triệu tấn/năm để sử dụng trong nước và xuất khẩu sang EU.<br />
Indonesia đến năm 2015 sử dụng B5 đại trà trong nước. Ngoài dầu cọ, nước<br />
này còn đầu tư trồng 10 tiệu hecta cây jatropha lấy làm dầu biodiesel.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 15
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Tại Nhật đã đưa <strong>nhiên</strong> liệu biodiesel vào phương tiện giao thông nội thành từ<br />
năm 1997. Nhật tập trung chủ yếu vào dầu cọ, canola, hướng dương, dầu mỡ đã qua<br />
sử dụng.<br />
Thái Lan ưu tiên sản xuất biodiesel từ dầu cọ. Hiện nay, Thái Lan sản xuất<br />
biodiesel từ dầu cọ với sản lượng 500.000 lít/ngày, dự kiến đến năm 2012 sẽ nâng<br />
công suất lên 8,5 triệu lít/ngày với tổng diện tích trồng cọ lên 1,6 triệu hecta.<br />
Lào và Campuchia cũng đang phát triển <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> từ dầu thực vật,<br />
trong đó cây jatropha được quan tâm nhiều nhất.<br />
Tại Việt Nam, tuy đã có nhiều nhóm quan tâm nghiên cứu điều chế biodiesel<br />
trong phòng thí nghiệm cách đây 10 <strong>–</strong> 15 năm nhưng việc đưa biodiesel vào sản<br />
xuất và thương mại chỉ phát triển vài năm gần đây.<br />
Tại An Giang, công ty Agifish xây dựng nhà máy chế biến biodiesel công<br />
suất 30.000 lít/ngày. Ở Cần Thơ, công ty TNHH Minh Tú đã đầu tư hơn 12 tỷ đồng<br />
xây dựng nhà máy sản xuất biodiesel từ mỡ cá. Hiện nay, do giá thành mỡ cá khá<br />
cao nên ở An Giang và Cần Thơ không còn sản xuất biodiesel từ mỡ cá. Năm 2007,<br />
công ty TNHH Minh Tú phối hợp với nông dân trồng 2.000 hecta jatropha tại các<br />
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên để làm nguyên liệu sản xuất BDF. Tháng 8/2006,<br />
hệ thống thiết bị sản xuất <strong>nhiên</strong> liệu biodiesel từ dầu ăn phế thải với công suất 2<br />
tấn/ngày được triển khai tại công ty Phú Xương, quận Thủ Đức, TPHCM. Giữa năm<br />
2007, quận 8 <strong>–</strong> TPHCM, nhà máy sản xuất dầu diesel từ dầu thực vật phế thải của<br />
nước ta chính thức hoạt động.<br />
Bộ công nghiệp đang xây dựng đề án phát triển <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> đến năm<br />
2015, tầm nhìn 2020 với mục tiêu sản xuất xăng E10 và biodiesel nhằm thay thế<br />
một phần <strong>nhiên</strong> liệu truyền thống hiện nay. Đến năm 2020, công nghệ sản xuất<br />
biodiesel ở Việt Nam sẽ đạt trình độ tiên tiến trên thế giới với sản lượng khoảng 5<br />
tỷ lít xăng E10 và 500 triệu lít biodiesel B10/năm.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 16
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.4. Tình hình nghiên cứu biodiesel<br />
Các trường, viện nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu để điều chế<br />
biodiesel từ các nguồn nguyên liệu và các loại xúc tác khác nhau:<br />
Nhóm tác giả Mariana Helena Chaves, José Renato de Oiliveira Lima,<br />
trường đại <strong>học</strong> Braxin dùng phản ứng transeste hóa tổng hợp biodiesel từ dầu nành,<br />
cọ sử dụng xúc tác ion Cu (II) và Co (II) [32].<br />
Nhóm tác giả ở <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Tây Ban Nha và Braxin Pedro Maireles-<br />
Torres, Antonio Jiménez-López áp dụng phản ứng transeste hóa để điều chế<br />
biodiesel từ dầu mỡ động thực vật sử dụng xúc tác bazơ là oxit của Mg, Al, Ca<br />
trong quá trình transeste hóa [21].<br />
Nhóm tác giả Rusiene M. de Almeida, Norberto S. Gonçalves, Simoni M.P.<br />
Meneghetti cũng của Braxin dùng phản ứng transeste hóa điều chế biodiesel từ dầu<br />
thực vật sử dụng xúc tác axit mạnh sunfat TiO2 (TiO2/SO4 ) [22].<br />
Nhóm tác giả Ulf Schuchardt, Sergio Teixeira ở <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Braxin điều<br />
chế biodiesel từ dầu đậu nành sử dụng xúc tác zirconia sunfated (S<strong>–</strong>ZrO2) [37].<br />
Nhóm tác giả Abraham Casas, Ángel Pérez, María Jesús Ramos ở <strong>Trường</strong><br />
<strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Tây Ban Nha và Mehico dùng phản ứng transeste hóa tác chất metanol để<br />
điều chế biodiesel từ dầu hướng dương sử dụng xúc tác zeolit [30].<br />
Nhóm tác giả Pisitpong Intarapong, Apanee Luengnaruemitchai <strong>Đại</strong> <strong>học</strong><br />
Thái Lan dùng phản ứng transeste hóa tác chất etanol, metanol để điều chế biodiesel<br />
từ dầu cọ sử dụng xúc tác KOH/Al2O3 và KOH/NaY (zeolit) [40].<br />
Nhóm tác giả K. Aryusuk, K. Krisnangkura ở <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Thái Lan điều chế<br />
biodiesel từ dầu cọ thải có chỉ số axit tự do cao, xúc tác NaOH 3%, tác chất etanol,<br />
thời gian phản ứng 30 giây, hiệu suất 97%, dùng phương pháp vi sóng 800 W sau<br />
đó cho chạy động cơ 100 kW [25].<br />
Nhóm tác giả Nezihe Azcan, Aysegul Danisman ở <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Thổ Nhĩ Kỳ áp<br />
dụng phương pháp vi sóng điều chế biodiesel từ dầu cotton, dầu hạt nho sử dụng<br />
xúc tác kiềm, thời gian phản ứng là 7 phút, nhiệt độ 333K, hiệu suất 88,3 <strong>–</strong> 93,7%<br />
và 87,1 <strong>–</strong> 99,4% [26], [27].<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 17
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Phân viện <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> Vật liệu thuộc Viện <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> Công nghệ Việt Nam,<br />
nhóm tác giả Hồ Sơn Lâm dùng phản ứng transeste hóa điều chế biodiesel từ dầu<br />
hạt cao su, xúc tác axit, tác chất etanol [6].<br />
Nhóm tác giả Vũ An, Đào Văn Tường Viện <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> Công nghệ Việt Nam<br />
dùng phản ứng transeste để điều chế biodiesel từ dầu cọ, xúc tác kiềm, tác chất là<br />
metanol dùng phương pháp khuấy gia nhiệt [1].<br />
Nhóm tác giả Đinh Thị Ngọ, Nguyễn Hữu Trịnh <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Bách khoa<br />
Hà Nội tập trung vào xúc tác dị thể, kiềm,…để điều chế biodiesel từ mỡ cá, dầu<br />
nành, dầu thực vật [3], [17].<br />
Nhóm tác giả Phan Minh Tân <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Bách khoa, <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Quốc gia<br />
TP.Hồ Chí Minh: BDF từ dầu dừa, dầu thải, mỡ cá basa...; phương pháp hóa <strong>học</strong>,<br />
xúc tác kiềm, enzyme, p-toluen sunfonic. Sở <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> Công nghệ Thành Phố đã<br />
đầu tư một dự án sản xuất thử nghiệm biodiesel từ dầu ăn phế thải [8], [9].<br />
<strong>Khoa</strong> Hóa, <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong>, <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> Quốc gia TP. Hồ<br />
Chí Minh đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu từ dầu mỡ động thực vật như<br />
dầu thải (dầu nành thải trong quá trình tinh luyện, dầu cọ thải trong quá trình sản<br />
xuất mì ăn liền, dầu ăn thải sau chiên rán, dầu thải từ các nhà hàng kentucky - chứa<br />
hàm lượng cao mỡ gà,...) dầu hạt bông vải,...bằng các phương pháp nhiệt và hóa<br />
siêu âm [15].<br />
Nhóm nghiên cứu Lê Ngọc Thạch, <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong>, <strong>Đại</strong><br />
<strong>học</strong> Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, nghiên cứu tổng hợp biodiesel từ mỡ cá tra với tác<br />
chất cacbonat dimetyl (DMC); xúc tác KOH, KF/Al2O3, H2SO4, CH3ONa (metoxid<br />
natrium) sử dụng phương pháp nhiệt, hóa siêu âm và vi sóng [16].<br />
Nhóm nghiên cứu Lê Viết Hải <strong>Trường</strong> <strong>Đại</strong> <strong>học</strong> <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong>, <strong>Đại</strong> <strong>học</strong><br />
Quốc gia TP.Hồ Chí Minh đang thực hiện đề tài sản xuất biodiesel từ dầu hạt<br />
jatropha sử dụng phương pháp hóa <strong>học</strong> và hóa siêu âm.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 18
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.5. Nguyên liệu sản xuất biodiesel<br />
Nguyên liệu sản xuất biodiesel hiện nay là dầu thực vật (dầu đậu tương, dầu<br />
hạt hướng dương, dầu cọ, dầu hạt nho, dầu dừa, dầu jatropha, dầu pongama, dầu<br />
nành, dầu lạc, …) mỡ động vật (mỡ cá, mỡ bò, …) và các loại dầu mỡ đã qua sử<br />
dụng. Thành phần hóa <strong>học</strong> và tính chất hóa lý của một số dầu nguyên liệu được<br />
trình bày trong Bảng 1.9.<br />
Ăn<br />
được<br />
Bảng 1.9: Tính chất của một số nguyên liệu sản xuất biodiesel [48]<br />
Loại Thành phần axit béo<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 19<br />
Tỷ<br />
khối<br />
(g/<br />
cm 3 )<br />
Điểm<br />
chảy<br />
(�C)<br />
Độ<br />
nhớt<br />
(cSt,<br />
40�C<br />
Chỉ số<br />
axit<br />
Nhiệt<br />
trị<br />
(MJ/<br />
Dầu nành C16:0; C18:1; C18:2 0,91 254 32,9 0,2 39,6<br />
Rapessed<br />
Hướng<br />
dương<br />
Cọ<br />
Lạc<br />
Ngũ cốc<br />
Camelina<br />
Bông<br />
Canola<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2;<br />
C20:0; C22:0<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2; C18:3<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2; C18:3; C20:0<br />
C20:1; C20:3<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2; C18:3<br />
kg)<br />
0,91 246 35,1 2,92 39,7<br />
0,92 274 32,6 - 39,6<br />
0,92 267 39,6 a - 39,5<br />
0,90 271 22,72 3 39,8<br />
0,91 277 34,9 a - 39,5<br />
0,91 - - 0,76 42,2<br />
0,91 234 18,2 - 39,5<br />
38,2 0,4
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Không<br />
ăn<br />
được<br />
Bắp<br />
Jatropha<br />
curcas<br />
Pongamina<br />
pinata<br />
Xoài biển<br />
Palanga<br />
Mỡ<br />
Nile tilapia<br />
Poultry<br />
Dầu ăn<br />
phế thải<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C16:1; C18:0;<br />
C18:1; C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2; C18:3<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:0; C18:1;<br />
C18:2<br />
C14:0; C16:0; C16:1;<br />
C17:0; C18:0; C18:1<br />
C18:2<br />
C16:0; C18:1; C20:5;<br />
C22:6<br />
C16:0; C16:1; C18:0;<br />
C18:1; C18:2; C18:3<br />
a: Độ nhớt động <strong>học</strong> ở 38�C, mm/s 2<br />
b: Độ nhớt động <strong>học</strong> ở 37�C, mm/s 2<br />
0,92 >230 35,6 0,55 39<br />
0,92 225 29,4 28 38,5<br />
0,91 205 27,8 5,06 34<br />
0,92 - 29,6 0,24 40,86<br />
0,90 221 72,0 44 39,25<br />
0,92 40,05<br />
0,91 - 32,1 b 2,81 -<br />
0,90 - - - 39,4<br />
0,90 - 44,7 2,5 -<br />
Các loại dầu, mỡ có thành phần cơ bản là triglixerit là este của glixerol với<br />
axit béo (Bảng 1.10) có nhiệt trị và chỉ số cetan tương đương với diesel truyền<br />
thống. Tuy <strong>nhiên</strong> độ nhớt của dầu, mỡ cao hơn gấp 10 đến 12 lần diesel truyền<br />
thống nên dầu không cháy hết hoàn toàn trong động cơ làm tăng đóng cặn cacbon<br />
trong buồng cháy. Nguyên tắc chung là phải làm giảm độ nhớt của các loại dầu mỡ<br />
này trước khi sử dụng như một dạng <strong>nhiên</strong> liệu cho động cơ diesel. Các phương<br />
pháp làm giảm độ nhớt là phối trộn với dầu diesel, thực hiện quá trình nhũ tương<br />
hóa, thủy phân, cracking hay transeste hóa. Phương pháp transeste hóa thường được<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 20
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
sử dụng nhiều hơn vì cho ra sản phẩm biodiesel sạch, quá trình sản xuất an toàn<br />
hơn, chất lượng biodiesel gần với dầu diesel. Phản ứng traneste hóa dầu thực vật<br />
xảy ra theo phương trình (1.1)<br />
CH2 OCOR1<br />
CH<br />
OCOR2 + 3ROH<br />
CH 2 OCOR 3<br />
CH2 OH<br />
CH OH<br />
CH 2 OH<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 21<br />
+<br />
R 1COOR<br />
R2COOR<br />
R 3COOR<br />
(1.1)<br />
Trong dầu mỡ, ngoài thành phần chính là este của glixerol với axit béo (Bảng<br />
1.10) thì còn có chứa các hợp chất của photpho, một lượng rất nhỏ lưu huỳnh,<br />
nước,…<br />
Bảng 1.10: Tên và công thức hóa <strong>học</strong> của các axit béo trong dầu, mỡ<br />
Tên một số loại axit<br />
Số lƣợng<br />
cacabon và<br />
nối đôi<br />
Công thức<br />
hóa <strong>học</strong><br />
Phân tử<br />
lƣợng<br />
Điểm nóng<br />
chảy, �C<br />
Axitcaptilic C8:0 C7H15COOH 142,2 16,0<br />
Axit capric C10:0 C9H19COOH 172,3 31,3<br />
Axit lauric C12:0 C11H23COOH 200,3 43,5<br />
Axit myristic C14:0 C13H27COOH 228,4 54,4<br />
Axit panmitic C16:0 C15H31COOH 256,4 62,9<br />
Axit stearic C18:0 C17H35COOH 284,5 69,6<br />
Axit arasidic C20:0 C19H39COOH 312,5 75,4<br />
Axit linolic C18:2 C17H31COOH 280,4 -9,5<br />
Axit oleic C18 :1 C17H33COOH 282,4 14<br />
Axit elaidic C18 :1 C17H33COOH 282,4 51<br />
Axit linoleic C18:3 C17H29COOH 278,4 -<br />
Axit elaeostearic C18:3 C17H29COOH 278,4 -<br />
Axit eruxic C22:1 C21H41C00H 338,4 34<br />
Axit rixinolenic C18:2 C18H34O3 298 -
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.6. Các phƣơng pháp hạ chỉ số axit của dầu nguyên liệu<br />
Nguyên liệu sản xuất biodiesel thường là các loại dầu mỡ động thực vật có<br />
chỉ số axit cao làm ảnh hưởng đến hiệu suất của phản ứng transeste hóa. Do đó, dầu<br />
nguyên liệu cần phải xử lý làm giảm hàm lượng axit béo trước khi thực hiện phản<br />
ứng transeste hóa dầu.<br />
1.6.1. Khử axit của dầu thực vật bằng cách chiết với dung môi phân cực<br />
Dầu thô được chiết từ các hạt có dầu là một hỗn hợp của các triglyxerit,<br />
glyxerit, các axit béo tự do, phospholiphit, sáp, sterol, các hợp chất màu, các chất<br />
gây mùi và các sinh tố (như vitamin A, E). Những bước xử lý hoàn toàn để tạo nên<br />
dầu phù hợp cho sử dụng được gọi là tinh luyện và thường xem là các bước tiền xử<br />
lý, khử axit, rửa và khử mùi.<br />
Việc loại bỏ các axit béo tự do (FFA) là bước khó nhất của quá trình tinh chế<br />
dầu, chủ yếu bởi vì nó ảnh hưởng đến tính kinh tế của dầu sản phẩm. Khử axit của<br />
dầu là công nghệ được hình thành bởi các phương pháp vật lý, hóa <strong>học</strong> hoặc tổng<br />
hợp. Tuy <strong>nhiên</strong>, đối với những dầu có nồng độ axit cao, phương pháp hóa <strong>học</strong> gây<br />
nên mất mát lớn các dầu trung tính do tạo thành xà phòng và nhũ tương. Phương<br />
pháp vật lý là có thể thực hiện được cho quá trình khử axit của những dầu có tính<br />
axit cao, vì phương pháp này gây mất mát dầu trung tính ít hơn phương pháp hóa<br />
<strong>học</strong>, nhưng tiêu thụ nhiều năng lượng hơn.<br />
Một số phương pháp mới để khử axit của dầu thực vật đã được đưa ra như<br />
khử axit sinh <strong>học</strong>, este hóa, trích ly hệ lỏng siêu tới hạn, quá trình màng, chiết bằng<br />
dung môi (hoặc chiết lỏng <strong>–</strong> lỏng).<br />
Khử axit sinh <strong>học</strong><br />
Khử axit bằng vi sinh vật hoặc bằng enzym. Hệ thống vi sinh vật được chọn<br />
lọc đồng hóa các axit béo cho chúng phát triển. Điều bất lợi của phương pháp này là<br />
axit linoleic và các axit béo mạch ngắn (số nguyên tử cacbon bé hơn 12) không sử<br />
dụng bằng phương pháp vi sinh và một vài axit béo lại còn ức chế sự phát triển của<br />
chúng. Nghiên cứu về qúa trình khử axit bằng enzym cũng đạt được những bước<br />
tiến quan trọng trong nhiều năm, chẳng hạn như quá trình bao gồm những vi khuẩn<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 22
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
lipaza đơn nhất tạo este hóa axit béo thành triglyxerit. Mặc dù quá trình này tiêu thụ<br />
năng lượng thấp và tạo ra nhiều dầu trung tính, nhưng nhược điểm của phương pháp<br />
này là giá cả enzym cao.<br />
Phương pháp este hóa<br />
Phương pháp este hóa cũng là phương pháp khử axit mà axit béo được este<br />
hóa với các nhóm hydroxit tự do còn lại trong dầu (hoặc với các nhóm hydroxit<br />
thêm vào từ glyxerin) ở nhiệt độ cao, và trong khí trơ, có hoặc không có xúc tác.<br />
Những nghiên cứu về este hóa của FFA ở nhiệt độ cao đã từng được phát triển từ<br />
thế kỷ 19, nhưng chủ yếu trong 20 năm qua, phương pháp trên thường được kết hợp<br />
với việc thêm kiềm trung tính. Mặc dù phương pháp này cho sản lượng dầu cao,<br />
nhưng các phản ứng hóa <strong>học</strong> trong phương pháp này không kiểm soát được, điều<br />
này trái ngược với phương pháp enzym.<br />
Trích ly hệ lỏng siêu tới hạn<br />
Việc sử dụng CO2 ở nhiệt độ và áp suất trên điểm tới hạn của nó cũng đã<br />
được thử nghiệm như một phương pháp khác để khử axit của dầu thực vật có chỉ số<br />
axit cao. Quá trình này có độ chọn lọc cao, lượng dầu mất mát là nhỏ nhất và có thể<br />
thực hiện ở nhiệt độ thấp. Nhưng về phương diện khác, thì phương pháp này là một<br />
quá trình khá tốn kém, và nó chỉ sử dụng cho việc khử axit của các loại dầu và mỡ<br />
đặc biệt với chỉ số axit ban đầu cao, trong đó chất lượng và sự tinh khiết của các cấu<br />
tử được chiết là rất quan trọng.<br />
Quá trình màng<br />
Trong công nghệ màng, các cấu tử được phân tách nhờ sự khác nhau về khối<br />
lượng phân tử. Nhiều cơ sở đã sử dụng kỹ thuật màng để khử axit của dầu thực vật,<br />
có hoặc không có dung môi, bằng việc sử dụng các màng xốp hoặc không xốp. Trên<br />
thực tế, quá trình màng có thể được thực hiện ở nhiệt độ phòng, với lượng năng<br />
lượng tiêu thụ thấp, không cần thêm hóa chất, miễn là duy trì các cấu tử nuôi dưỡng<br />
và các cấu tử mong muốn khác. Ngược lại, các nghiên cứu đã chỉ ra một vài hạn chế<br />
của phương pháp này, bởi vì sự khác nhau không nhiều của khối lượng phân tử giữa<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 23
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
các triglyxerit và FFA làm cho quá trình phân tách là rất khó khăn và bởi vì sự<br />
không hiệu quả của các màng có độ chọn lọc cao.<br />
Quá trình chiết bằng dung môi<br />
Sự hòa tan khác nhau của các axit béo và các triglyxerit trung tính trong một<br />
dung môi thích hợp là cơ sở của chiết lỏng <strong>–</strong> lỏng cho quá trình khử axit của dầu<br />
thực vật. Quá trình này đã từng được đề cấp đến vì những thuận lợi của nó khi so<br />
sánh với phương pháp tinh luyện vật lý và hóa <strong>học</strong>. Chẳng hạn như, quá trình này là<br />
được thực hiện ở nhiệt độ phòng và áp suất khí quyển, tiêu thụ ít năng lượng và dầu<br />
được xử lý ở điều kiện dễ hơn. Bên cạnh đó, chiết lỏng <strong>–</strong> lỏng còn có thuận lợi là<br />
tránh sự hình thành của các sản phẩm nước thải và giảm sự mất mát dầu trung tính.<br />
Hơn thế nữa, sự tách dung môi từ dầu đã khử axit và dung môi thu hồi từ dòng chiết<br />
có thể được thực hiện dễ dàng, bởi vì sự chênh lệch lớn giữa điểm sôi của dung<br />
môi, các axit béo và các triglyxerit. Trên thực tế thì quá trình này có thể được thực<br />
hiện bằng sự hóa hơi hoặc chưng cất ở nhiệt độ thấp, chủ yếu là thấp hơn 80�C.<br />
1.6.2. Khử axit bằng các hợp chất của kim loại nhóm IA trong dung môi phân<br />
cực.<br />
Các tạp chất axit hữu cơ có thể là nguyên nhân gây ăn mòn, đặc biệt dễ gặp<br />
hiện tượng này trong các công đoạn tách lọc ở nhiệt độ 200�C hoặc cao hơn. Do<br />
vậy, cần giảm nồng độ axit trong dầu thô, chẳng hạn như giảm axit naphthenic.<br />
Có nhiều phương pháp khác nhau để khử axit của dầu thô hoặc các phân<br />
đoạn của nó (gọi chung là “dầu”). Trong quy trình khử axit truyền thống, dung dịch<br />
NaOH hay KOH được cho tiếp xúc với dầu để trung hòa axit có trong dầu. Phản<br />
ứng tạo ra pha nước bao gồm: nước, naphthenat kim loại kiềm. Pha nước này phải<br />
được loại ra khỏi dầu đã được khử axit trước khi dầu này được sử dụng hoặc bán.<br />
Naphthenat kim loại kiềm về mặt hóa <strong>học</strong> giống như xà phòng, nên có xu<br />
hướng tạo nhũ với pha hydrocacbon và nước. Nhũ tương này gây cản trở cho việc<br />
tách dầu đã khử axit và pha nước. Tuy <strong>nhiên</strong> độ tan của các naphthenat kim loại<br />
kiềm trong pha nước tăng lên khi nồng độ kiềm trong pha nước giảm nên việc sử<br />
dụng dung dịch NaOH hay KOH loãng sẽ làm giảm xu hướng tạo nhũ của<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 24
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
naphthenat kiềm. Vì vậy, vấn đề hình thành nhũ tương có thể được giảm bớt bằng<br />
việc sử dụng dung dịch bazơ loãng.<br />
Theo nhiều nghiên cứu thì nhũ tương bền được hình thành khi bazơ được<br />
thêm vào dầu theo tỷ lệ dầu/bazơ là 1:1 hoặc bé hơn. Vì vậy, dầu được thêm vào<br />
pha bazơ theo tỷ lệ dầu/bazơ là 1:3 tới 1:15 . Bằng việc xử lý dầu theo cách này, đã<br />
tạo ra sự phân tán không bền của dầu trong một pha nước bazơ liên tục. Các nhũ<br />
tương không bền dễ bị phá vỡ, cho phép naphthenat kim loại kiềm và bazơ được<br />
tách ra khỏi dầu một cách thuận lợi.<br />
Vấn đề là cần một lượng lớn thể tích nuớc bazơ. Điều này là không kinh tế,<br />
đặc biệt khi cần xử lý lượng lớn dầu.<br />
WO 97/08270 đưa ra quá trình trong đó lượng nước bazơ cho vào tương đối<br />
nhỏ. Đặc biệt, mô tả quá trình khử axit trong đó các oxit, hydroxit hoặc hydroxit<br />
hydrat của kim loại kiềm nhóm IA và IIA tiếp xúc với dầu thô chứa từ 0 đến 7%<br />
nước. Khi sử dụng các chất nhóm IA, thì quá trình không cần thêm nước, khi sử<br />
dụng các chất nhóm IIA thì cần thêm một lượng nước để tăng tác dụng của bazơ khi<br />
trung hòa axit. Quá trình xử lý thu được dầu đã xử lý có tính axit giảm. Các chất rắn<br />
lơ lửng trong dầu sau khi xử lý được tách bằng ly tâm.<br />
Quá trình trên có thể được sử dụng để xử lý dầu với quy mô nhỏ, nhưng<br />
không thể sử dụng để xử lý lượng dầu lớn một cách có hiệu quả. Điều này do tốc độ<br />
khử axit bị giới hạn bởi yêu cầu cần ly tâm toàn bộ lượng dầu đã xử lý.<br />
Trong đăng ký sáng chế PCT GB9904387, quá trình khử axit được thực hiện<br />
bằng cách cho dầu tiếp xúc trực tiếp với dung môi phân cực (ví dụ MeOH), sao cho<br />
ít nhất một phần axit hữu cơ có mặt trong dầu được chiết vào dung môi như một pha<br />
trích ly. Pha trích ly sau đó được tách khỏi dầu. Tuy <strong>nhiên</strong> trong quá trình này cần<br />
phải dùng một lượng lớn dung môi phân cực và lặp đi lặp lại quá trình chiết, để<br />
giảm lượng axit trong dầu đến mức chấp nhận được. Và một lượng lớn dung môi<br />
cần được tái sinh để tuần hoàn cho quá trình chiết, điều này là không kinh tế.<br />
Khi oxit, hydroxit hoặc alkoxit kim loại nhóm IA tiếp xúc với dầu với sự có<br />
mặt của dung môi phân cực, thì sản phẩm trung hòa, chẳng hạn như naphthenat kim<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 25
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
lọai nhóm IA, chủ yếu được tách vào dung môi phân cực. Mặt khác, sự hình thành<br />
nhũ tương bền có thể được ngăn chặn bằng cách kiểm soát lượng nước có mặt trong<br />
phản ứng trung hòa.<br />
Theo một phát minh hiện nay, đã đưa ra một quá trình khử axit của dầu chứa<br />
axit hữu cơ, quá trình bao gồm: (a) sự tiếp xúc của dầu với muối kim loại nhóm IA<br />
được lựa chọn từ nhóm oxit, hydroxit và alkoxit kim loại nhóm IA và một dung môi<br />
phân cực, với sự có mặt của dưới 5% thể tích nước dựa trên thể tích dầu, sao cho ít<br />
nhất một phần của axit hữu cơ được chuyển đổi thành các muối trung tính kim loại<br />
nhóm IA, và ít nhất một phần muối trung tính được chiết vào dung môi phân cực<br />
như pha chiết; và (b) việc tách dầu đã được giảm tính axit từ dung môi chiết phân<br />
cực.<br />
Một số axit hữu cơ có mặt trong dầu bao gồm: axit phenolic, các axit chứa<br />
lưu huỳnh, và phổ biến nhất là các axit naphthenic. Bằng cách trung hòa các axit<br />
hữu cơ với oxit, hydroxit và alkoxit kim loại nhóm IA, thì chỉ số axit có thể giảm<br />
đến 0,9 hoặc thấp hơn, thường là đến dưới 0,5 có khi đến dưới 0,3.<br />
Công đoạn (a) có thể được thực hiện bằng việc thêm các oxit, hydroxit và<br />
alkoxit kim loại nhóm IA vào dầu và sau đó chiết các muối trung hòa của kim loại<br />
nhóm IA (và bất kỳ oxit, hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA chưa chuyển<br />
hóa hết) từ dầu bằng cách rửa với dung môi phân cực. Lượng oxit, hydroxit và<br />
alkoxit kim loại nhóm IA được thêm vào dầu phụ thuộc vào giá trị chỉ số axit của<br />
dầu. Tỷ lệ mol oxit, hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA được thêm vào dầu<br />
so với chỉ số axit của dầu có thể nằm trong khoảng 0,7:1 tới 1:1. Tương tự, tỷ lệ thể<br />
tích của dung môi phân cực so với dầu ở bước rửa là 1:1 đến 1:40. Bước rửa có thể<br />
được lặp lại vài lần, khi nồng độ của các muối kim loại trung hòa (và bất kỳ oxit,<br />
hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA chưa chuyển hóa hết) trong dầu được<br />
giảm tới giá trị mong muốn. Nồng độ kim loại nhóm IA thích hợp trong dầu đã xử<br />
lý là dưới 30 ppm, tốt hơn là dưới 15 ppm. Bước rửa có thể được thực hiện trong<br />
tháp chiết ngược dòng.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 26
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Một cách khác là cho dầu có thể tiếp xúc với dung dịch loãng của oxit,<br />
hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA trong dung môi phân cực (từ đây được<br />
gọi là “dung dịch loãng”). Ưu điểm của việc dùng dung dịch loãng là có thể loại bỏ<br />
việc rửa dầu bằng dung môi phân cực để giảm các hàm lượng kim loại nhóm IA đến<br />
mức cho phép. “Dung dịch loãng” có nghĩa là nồng độ của các oxit, hydroxit và<br />
alkoxit kim loại kiềm nhóm IA là dưới 0,025 mol/l , tốt hơn là dưới 0,0125 mol/ l.<br />
Tỷ lệ thể tích phù hợp của dung dịch loãng với dầu là là 1:1 đến 1:40. Công đoạn<br />
(a) và (b) có thể được lặp lại vài lần, tới khi hàm lượng axit hữu cơ trong dầu được<br />
giảm tới giá trị mong muốn. Công đoạn (a) có thể được thực hiện trong tháp chiết<br />
ngược dòng.<br />
Một cách khác nữa là dầu có thể được tiếp xúc trực tiếp với dung dịch có<br />
nồng độ tương đối đậm đặc của các oxit, hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA<br />
trong dung môi phân cực (từ đây gọi là “dung dịch đậm đặc”). Với dung dịch đậm<br />
đặc thì nồng độ của oxit, hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA là lớn hơn 0,25<br />
mol/l, tốt hơn là 0,4 mol/l. Tương ứng, tỷ lệ thể tích dung dịch đậm đặc với dầu là là<br />
1:1 đến 1:40. Sau khi tách pha dung môi phân cực, pha dầu đã xử lý được chiết sâu<br />
hơn (được rửa) bằng dung môi phân cực. Tỷ lệ thể tích phù hợp của dung môi phân<br />
cực và dầu đã xử lý có thể tương tự như tỷ lệ thể tích dung dịch đậm đặc với dầu.<br />
Công đoạn rửa có thể được thực hiện nhiều lần cho đến khi muối trung hòa của kim<br />
loại nhóm IA (và bất kỳ oxit, hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA chưa<br />
chuyển hóa hết) trong dầu giảm đến giá trị cho phép. Dầu được tiếp xúc với “dung<br />
dịch đậm đặc” và công đoạn rửa có thể được thực hiện trong tháp chiết ngược dòng.<br />
Một vài dung môi phân cực phù hợp có thể được sử dụng cho quá trình hiện<br />
nay, chẳng hạn như các rựơu, các dẫn xuất của rượu và ete. Các rượu thích hợp như<br />
metanol, ethanol, n-prophanol và iso-prophanol với metanol và etanol là tốt hơn.<br />
Các glycol như etylen glycol và prophylen glycol cũng có thể được dùng. Các ete<br />
thích hợp bao gồm các dạng ete glycol, chẳng hạn như alkytriglycol ete. Các nhóm<br />
alkyl của alkytriglycol ete có thể có mạch thẳng hoặc mạch nhánh và số nguyên tử<br />
cacbon phù hợp là 3-6, tốt hơn là 3-5. Những ete glycol phù hợp khác bao gồm:<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 27
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
etylen glycol mono butyl ete và butyl diglycol ete. Các dẫn xuất của rượu như<br />
polyalkolxylat cũng có thể được dùng. Hỗn hợp các dung môi phân cực có thể được<br />
sử dụng. Dung môi phân cực có khả năng hòa tan lớn, hoặc phân tán dưới dạng ion,<br />
và do đó có thể chiết các muối trung hòa của các kim loại nhóm IA (và bất kỳ oxit,<br />
hydroxit và alkoxit kim loại kiềm nhóm IA chưa chuyển hóa hết) từ dầu.<br />
Nên sử dụng các dung môi phân cực ở bước a) ở dạng khan, tức là dung môi<br />
phân cực chứa ít hơn 2% nước theo khối lượng. Việc sử dụng dung môi khan nhằm<br />
mục đích giảm bớt nguy cơ tạo thành nhũ tương bền ở công đoạn (a). Tuy <strong>nhiên</strong>,<br />
đối với những dầu đã được xử lý mà vẫn có hàm lượng nước cao, thì có thể cần<br />
thiết phải khử nước trong dầu trước khi thực hiện quá trình. Một phần ít nhất của<br />
nước có thể được tách từ dầu bằng thiết bị tách.<br />
Nồng độ của nước ở bước (a) nên được duy trì ở mức dưới 4% theo thể tích<br />
dầu. Thực tế thì dưới 0,5% chẳng hạn là dưới 0,25% theo thể tích dầu.<br />
Công đoạn (a) có thể được thực hiện bằng máy khuấy, một máy khuấy siêu<br />
âm hoặc tạo bọt bằng khí trơ xuyên qua hỗn hợp phản ứng. Bước khuấy trộn có thể<br />
từ 2 đến 30 phút, tốt nhất là 8 đến 15 phút. Bước khuấy trộn có thể được thực hiện ở<br />
nhiệt độ dưới 60�C tốt nhất là 10 đến 25�C và trong quá trình khuấy không làm<br />
nóng dầu.<br />
Sau khi khuấy trộn, hỗn hợp phản ứng trộn để lắng tách thành pha dầu và<br />
pha dung môi chiết phân cực. Nước xuất hiện trong hỗn hợp phản ứng (do có mặt<br />
trong dầu ban đầu, trong dung môi phân cực hoặc là sản phẩm phụ của phản ứng<br />
trung hòa) sẽ ưu tiên phân chia vào pha dung môi chiết phân cực. Tùy thuộc vào tỷ<br />
trọng của dung môi phân cực, mà pha dung môi chiết phân cực có thể là pha trên<br />
hoặc pha dưới trong thiết bị lắng.<br />
Dầu đã tách ra có thể được sử dụng ngay lập tức hoặc được xử lý sâu hơn<br />
chẳng hạn như chưng cất phân đoạn.<br />
Pha dung môi phân cực được tách ra từ công đoạn (b) gồm có: dung môi<br />
phân cực, nước, muối trung hòa của kim loại nhóm IA (và bất kỳ oxit, hydroxit,<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 28
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
hoặc alkoxit chưa chuyển hóa hết). Dung môi phân cực được thu hồi tái sử dụng,<br />
lượng kim loại nhóm IA và nước trong pha dung môi phân cực đã giảm bớt.<br />
Mặt khác, để ngăn ngừa sự tích tụ nước trong quá trình nên khử nước trong<br />
dung môi phân cực đến lượng tối thiểu trước khi hồi lưu dòng dung môi phân cực<br />
lên bước (a). Ít nhất một phần dung môi có thể bị hydrate hóa, chẳng hạn như bằng<br />
chưng cất, bằng việc cho dung môi ẩm tiếp xúc với tác nhân khô như rây phân tử,<br />
bằng việc sấy hoặc cho bay hơi dung môi ẩm.<br />
Từ đây thấy rằng: có thể giảm lượng axit hữu cơ có trong dầu thô bằng kiềm<br />
của kim loại nhóm IA trong dung môi phân cực.<br />
Như vậy, có nhiều cách để giảm nồng độ các axit hữu cơ có trong dầu. Tùy<br />
theo từng trường hợp và với các mục đích khác nhau để lựa chọn phương pháp khử<br />
axit cho phù hợp.<br />
1.7. Các phƣơng pháp điều chế biodiesel<br />
1.7.1. Phƣơng pháp sấy nóng<br />
Độ nhớt của dầu sẽ giảm khi nhiệt độ tăng. Tuy <strong>nhiên</strong>, để dầu thực vật và mỡ<br />
đạt được độ nhớt tương đương với <strong>nhiên</strong> liệu diesel thì đòi hỏi nâng nhiệt độ lên khá<br />
cao (ví dụ như đối với dầu canola ở nhiệt độ môi trường thì độ nhớt của nó gấp 12<br />
lần so với <strong>nhiên</strong> liệu diesel, ở nhiệt độ 80 o C thì độ nhớt vẫn còn gấp 6 lần so với<br />
<strong>nhiên</strong> liệu diesel), hơn nữa hệ thống gia nhiệt cho dầu, mỡ không thể duy trì mãi khi<br />
động cơ không hoạt động điều đó làm cho dầu, mỡ sẽ bị đông lại đặc biệt là vào<br />
mùa đông, trước khi khởi động dầu, mỡ cần phải được đốt nóng điều đó gây ra<br />
những bất tiện cho người lái xe. Do những nhược điểm trên, hiện nay phương pháp<br />
sấy nóng ít sử dụng trong thực tế [4].<br />
1.7.2. Phƣơng pháp pha loãng<br />
Pha loãng là giải pháp đơn giản, dễ dàng thực hiện ở mọi quy mô. Pha trộn<br />
được tiến hành bằng phương pháp cơ <strong>học</strong>, không đòi hỏi thiết bị phức tạp, hỗn hợp<br />
nhận được bền vững và ổn định trong thời gian dài. Nhược điểm lớn nhất của giải<br />
pháp này là khi tỷ lệ dầu thực vật, mỡ động vật lớn hơn 50% thì không thích hợp,<br />
do ở tỉ lệ này, độ nhớt của hỗn hợp lớn hơn độ nhớt <strong>nhiên</strong> liệu diesel nhiều và gây<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 29
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
khó khăn khi sử dụng với tỷ lệ dầu thực vật, mỡ động vật cao làm <strong>nhiên</strong> liệu. Pha<br />
loãng diesel bằng dầu thực vật, mỡ động vật; hỗn hợp 10% dầu thực vật, mỡ động<br />
vật có độ nhớt gần bằng diesel và thể hiện tính năng kỹ thuật tốt đối với động cơ<br />
diesel [4].<br />
1.7.3. Phƣơng pháp cracking<br />
Quá trình cracking dầu thực vật, mỡ động vật gần giống với quá trình cracking<br />
dầu mỏ. Nguyên tắc cơ bản của quá trình là cắt ngắn mạch hiđrocacbon của dầu<br />
thực vật, mỡ động vật bằng tác dụng của nhiệt và chất xúc tác thích hợp. Sản phẩm<br />
của quá trình cracking dầu thực vật, mỡ động vật thông thường bao gồm: khí<br />
(90% hiđrocarbon), xăng (octan 86, d = 0,75 g/cm 3 ), <strong>nhiên</strong> liệu DO (d = 0,82 g/cm 3 )<br />
và một số sản phẩm phụ khác. Phương pháp này có nhược điểm là tốn năng lượng,<br />
khó thực hiện ở qui mô nhỏ và sản phẩm gồm nhiều dạng <strong>nhiên</strong> liệu [4].<br />
1.7.4. Phƣơng pháp nhũ tƣơng hóa<br />
Nguyên liệu ban đầu là dầu thực vật hay mỡ động vật, rượu, và chất tạo sức<br />
căng bề mặt. Với thiết bị tạo nhũ có thể tạo ra nhũ tương dầu thực vật, mỡ động vật<br />
- rượu trong đó các hạt rượu có kích thước hạt khoảng 150 �m được phân bố đều<br />
trong nhũ tương. Nhược điểm là khó khăn trong việc tạo và duy trì nhũ, lọc <strong>nhiên</strong><br />
liệu và do rượu bay hơi (nhiệt độ hóa hơi của rượu thấp) làm cản trở hoạt động bình<br />
thường của hệ thống cấp <strong>nhiên</strong> liệu cho động cơ [4].<br />
1.7.5. Hydroprocessing dầu thực vật<br />
Thực chất bao gồm 3 quá trình: hiđrocracking (bẻ gãy các phân tử lớn),<br />
hidrotreating (tách oxy), hidrogen hóa (bão hòa nối đôi). Phương pháp này đòi hỏi<br />
cần có xúc tác nên cũng gặp phải những vấn đề của xúc tác. Sản phẩm là siêu cetan<br />
(hydrocarbon no mạch thẳng cùng khoảng nhiệt độ sôi như diesel, chỉ số cetan<br />
55 - 90), hiệu suất khoảng 80%. Pha với dầu diesel gọi là diesel xanh. Sản phẩm<br />
phụ: C1 - C5; H2O, CO2. Nhược điểm diesel xanh là không thích hợp cho nhiệt độ<br />
thấp, <strong>nhiên</strong> liệu khó phân hủy (giống dầu diesel).<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 30
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.7.6. Phƣơng pháp transeste hóa<br />
Là phương pháp không phức tạp có thể thực hiện ở qui mô nhỏ với điều kiện<br />
cần có các hiểu biết cơ bản về phản ứng este hóa.<br />
Trong các phương pháp trên, phản ứng transeste hóa là lựa chọn tối ưu do quá<br />
trình phản ứng tương đối đơn giản và tạo ra sản phẩm este có tính chất hóa lý gần<br />
giống <strong>nhiên</strong> liệu diesel. Hơn nữa, các este có thể được đốt cháy trực tiếp trong<br />
buồng đốt của động cơ và khả năng hình thành cặn thấp.<br />
1.7.7. Phản ứng transeste hóa điều chế BDF<br />
Phản ứng transeste hóa là phản ứng giữa ancol với este hay còn gọi là quá<br />
trình ancol giải [56].<br />
Phản ứng transeste hóa dầu mỡ, động thực vật là phương pháp điều chế<br />
biodiesel được chú ý nhiều nhất hiện nay. Nguyên lý cơ bản của phương pháp này<br />
là phản ứng giữa phân tử ancol với triglixerit (Phản ứng 1.1) để tạo ra điglixerit và<br />
sau đó là monoglixerit (Phản ứng 1.2) nhằm tạo ra este của axit béo với ancol nhằm<br />
làm giảm độ nhớt của nguyên liệu.<br />
Trigliceride �ROHDigliceride� R1COOR Digliceride �ROHMonogliceride� R2COOR (1.2)<br />
Monogliceride �ROHGlicerol� R3COOR Ancol được sử dụng có thể là metanol, etanol, butanol, propanol,…. [25].<br />
Để thu được nhiều biodiesel thường dùng lượng dư ancol và xúc tác được sử<br />
dụng có thể là xúc tác axit, bazơ hay enzym. Theo quan điểm của nhiều tác giả<br />
trước đây cho rằng: phản ứng transeste hóa là phản ứng thuận nghịch nên để đạt<br />
được hiệu suất phản ứng cao phải dùng dư ancol để cân bằng dịch chuyển theo<br />
chiều thuận. Nhưng hiện nay, theo nghiên cứu của tác giả Lê <strong>Tự</strong> Thành cho biết sản<br />
phẩm phụ glixerol hòa tan tốt ancol làm giảm hiệu suất của phản ứng nên dùng dư<br />
lượng ancol [67].<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 31
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.8. Các phƣơng pháp thực hiện phản ứng transeste hóa<br />
1.8.1. Phƣơng pháp hóa <strong>học</strong> [1], [16]<br />
Đây là phương pháp cổ điển, còn gọi là phương pháp nhiệt, dùng máy khuấy<br />
cơ <strong>học</strong> hay máy khuấy từ có gia nhiệt để khuấy trộn hỗn hợp tạo diện tích tiếp xúc<br />
tốt giữa hai pha đồng thời cung cấp nhiệt cho quá trình phản ứng. Phương pháp này<br />
dễ thực hiện, có thể đạt phản ứng hoàn toàn nhưng đòi hỏi thời gian khá dài.<br />
1.8.2. Phƣơng pháp siêu âm [4]<br />
Đây là một trong những nghiên cứu gần đây, phương pháp siêu âm thường<br />
được áp dụng cho phản ứng transeste hóa vì có ưu điểm là rút ngắn thời gian phản<br />
ứng đồng thời độ chuyển hóa của phản ứng tương đối cao.<br />
1.8.3. Phƣơng pháp vi sóng [9], [26]<br />
Phương pháp vi sóng áp dụng cho phản ứng transeste hóa cho độ chuyển hóa<br />
cao và thời gian phản ứng ngắn.<br />
1.8.4. Phản ứng transeste hóa môi trƣờng siêu tới hạn [11], [33], [34], [50], [55]<br />
Đây là một trong những hướng nghiên cứu mới về biodiesel, tập trung vào<br />
phương pháp điều chế không xúc tác trong môi trường ancol siêu tới hạn. Đối với<br />
phản ứng transeste hóa thông thường, người ta phải giải quyết hai vấn đề: thời gian<br />
phản ứng và thời gian tách biodiesel (loại xúc tác và xà phòng trong sản phẩm).<br />
Trong phương pháp dùng ancol siêu tới hạn không có xúc tác, những vấn đề trên<br />
không xảy ra.<br />
1.9. Các loại xúc tác dùng trong phản ứng transeste hóa.<br />
enzym.<br />
Các loại xúc tác dùng cho phản ứng transeste hóa có thể là xúc tác axit, bazơ,<br />
1.9.1. Xúc tác axit<br />
Thường sử dụng xúc tác axit Bronsted như H2SO4, HCl [54] và sulfonic (axit<br />
p-toluensulfonic) [8]. Cơ chế phản ứng [56] được mô tả ở Hình 1.1.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 32
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
R' +<br />
R'' =<br />
OH<br />
R'<br />
OR''<br />
O<br />
OR''<br />
+ O<br />
R<br />
H<br />
H +<br />
R'<br />
R'<br />
OH +<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 33<br />
OR''<br />
OH<br />
OR''<br />
O<br />
H<br />
R<br />
R' +<br />
- H + /R''OH<br />
OH<br />
OR''<br />
Hình 1.1: Cơ chế phản ứng transeste hóa xúc tác axit.<br />
O -<br />
OH<br />
OH<br />
R’: mạch cacbon của axit béo<br />
R: nhóm ankyl của ancol.<br />
Sự kết hợp proton với nhóm cacbonyl của este dẫn đến sự hình thành<br />
cacbocation, sau đó tác nhân thân hạch là ancol tấn công vào cacbocation này sinh<br />
ra hợp chất trung gian tứ diện, loại glycerol để hình thành este mới và hoàn nguyên<br />
xúc tác H + .<br />
Theo cơ chế này, các axit cacboxylic có thể được tạo thành bởi phản ứng của<br />
cacbocation với sự hiện diện của nước trong hỗn hợp phản ứng. Vì vậy, nên thực<br />
hiện phản ứng transeste hóa xúc tác axit trong môi trường khan để tránh axit<br />
cacboxylic tạo thành, làm giảm hiệu suất của phản ứng.<br />
Phản ứng transeste hóa xúc tác axit có độ chuyển hóa cao. Tuy <strong>nhiên</strong>, phản<br />
ứng diễn ra với tốc độ chậm, thời gian phản ứng thường là hơn 3 giờ để đạt đến độ<br />
chuyển hóa hoàn toàn. Phản ứng chọn lọc, đòi hỏi nhiệt độ cao trên 100�C [11].<br />
Ngoài ra, xúc tác axit còn có giá thành khá cao và ăn mòn thiết bị phản ứng là<br />
nguyên nhân làm cho loại xúc tác này không được sử dụng trong công nghiệp.<br />
Thường dùng cho quá trình tiền xử lý các loại dầu, mỡ có chỉ số axit cao [28], [60].<br />
1.9.2. Xúc tác bazơ<br />
Phản ứng transeste hóa dầu thực vật, mỡ động vật xúc tác bazơ diễn ra nhanh<br />
hơn so với xúc tác axit. Xúc tác bazơ ít ăn mòn thiết bị hơn nên loại xúc tác bazơ<br />
R'<br />
O<br />
OR
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
được dùng nhiều trong công nghiệp, thường dùng là alkoxit kim loại kiềm, hiđroxit<br />
của natri hay kali, các muối cacbonat của kali và natri [34].<br />
Böôùc 1<br />
Böôùc 2<br />
Böôùc 3<br />
Böôùc 4<br />
Cơ chế của phản ứng [56] được mô tả trong Hình 1.2.<br />
ROH + B RO - + BH +<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
CH 2 OCR'''<br />
O<br />
CH 2 O C<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
CH 2 O -<br />
OR<br />
O -<br />
R'''<br />
+ - OR<br />
+ BH +<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
CH 2 O -<br />
R'COO CH2 R''COO CH<br />
CH 2 O C<br />
CH 2 OH<br />
Hình 1.2: Cơ chế phản ứng transeste hóa xúc tác bazơ<br />
R’, R’’, R’’’: mạch cacbon của axit béo<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 34<br />
OR<br />
O -<br />
R'''<br />
+ ROOCR'''<br />
+ B<br />
Bước đầu tiên là phản ứng giữa bazơ với ancol tạo ra một ankoxit. Tác nhân<br />
thân hạch ankoxit tấn công vào nhóm cacbonyl của triglixerit tạo ra hợp chất trung<br />
gian tứ diện, từ ankyl este và anion tương ứng của điglixerit được tạo thành…, do<br />
đó tái tạo hoạt tính, có thể phản ứng với phân tử ancol tiếp theo, bắt đầu một chu<br />
trình xúc tác mới. Các điglixerit và monoglixerit được chuyển hóa với cùng cơ chế<br />
tạo ra một hỗn hợp ankyl este và glixerol.<br />
Các ankoxit kim loại kiềm CH3ONa là những xúc tác hoạt động nhất, cho<br />
hiệu suất rất cao (> 98%) trong thời gian ngắn (30 phút) ngay cả ở nồng độ thấp.<br />
Tuy <strong>nhiên</strong>, yêu cầu sự khan nước, điều này không phù hợp với một số quy trình<br />
công nghiệp. Hiđroxit kim loại kiềm (NaOH và KOH) rẻ hơn ankoxit kim loại,<br />
nhưng cũng kém hoạt động hơn. Tuy vậy, chúng vẫn là xúc tác tốt vì cho độ chuyển<br />
hóa khá cao khi tăng nồng độ xúc tác [47]. Ngay cả khi sử dụng hỗn hợp ancol/dầu<br />
khan nước, một lượng nhỏ nước được sinh ra trong hệ thống bởi phản ứng giữa
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
hidroxit với ancol. Sự hiện diện của nước làm tăng sự thủy phân những este tạo<br />
thành, kết quả là tạo ra xà phòng. Phản ứng xà phòng hóa này làm giảm hiệu suất<br />
este và gây khó khăn cho việc thu hồi glixerin đồng thời tạo nhũ trong sản phẩm<br />
[34], [63].<br />
1.9.3. Xúc tác rắn<br />
Phản ứng transeste hóa xúc tác rắn cho độ chuyển hóa các ankyl este cao.<br />
Tuy <strong>nhiên</strong>, phản ứng diễn ra chậm, thời gian phản ứng hơn một giờ để đạt đến độ<br />
chuyển hóa hoàn toàn [42], [44], [49], [69].<br />
1.9.4. Xúc tác enzym<br />
Trong những năm gần đây, các xúc tác có nguồn gốc từ cacbohydrat được<br />
nghiên cứu nhiều và cho thấy rằng xúc tác tinh bột cho hiệu quả xúc tác tốt nhất.<br />
Các xúc tác có nguồn gốc từ cacbohydrat có hoạt tính cao hơn so với hai loại xúc<br />
tác axit rắn trong phản ứng este hóa và transeste hóa, rất có hiệu quả trong việc sản<br />
xuất biodiesel được sản xuất từ nguồn nguyên liệu có chỉ số axit cao 27,8% [49].<br />
Xúc tác enzym có ưu điểm là hạn chế sự tạo xà phòng trong quá trình phản<br />
ứng, quá trình tinh chế sản phẩm dễ dàng, sạch, dễ cô lập sản phẩm, hạn chế chất<br />
thải rắn và chất lỏng ô nhiễm. Tuy <strong>nhiên</strong>, xúc tác enzym thường ít được sử dụng<br />
trong công nghiệp vì thời gian phản ứng lâu và giá thành cao so với các loại xúc tác<br />
kiềm như NaOH, KOH. Ngoài ra, xúc tác enzym thường được cố định trên chất<br />
mang rắn nên ngăn cản hiệu quả phục hồi của xúc tác [38], [48].<br />
1.9.5. Xúc tác bazơ không ion<br />
Trong những nghiên cứu ban đầu, một số bazơ hữu cơ đã được phát triển và<br />
sử dụng làm xúc tác cho phản ứng transeste hóa dầu thực vật, mỡ động vật. Trong<br />
Bảng 1.11 hoạt tính xúc tác của một số ankyl guanidin đã được so sánh với các bazơ<br />
khác như amidin DBU và DBN, triaminophosphoran BEMP và Me7P.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 35
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Bảng 1.11: So sánh hoạt tính xúc tác của một số baz hữu cơ trong phản ứng<br />
transeste hóa dầu cải với metanol<br />
Xúc tác pKa Hiệu suất sau 1 giờ (%)<br />
TBD 25,9 91<br />
BEMP 66<br />
Me7P 27,52 63<br />
MTBD 25,43 47<br />
DBU 24,32 32<br />
TMG 23,30 18<br />
DBN 23,79 4,5<br />
Bảng 1.11 cho thấy, dùng xúc tác TBD (1,5,7-triazabicyclo[4.4.0]dec-<br />
5-ene) dù chỉ với nồng độ 1% vẫn thu được hơn 90% metyl este sau một giờ phản<br />
ứng. Khi sử dụng những bazơ khác trong cùng điều kiện thì hiệu suất không vượt<br />
quá 66%. Điều này không liên quan đến độ baz của các hợp chất mà được giải thích<br />
bằng động <strong>học</strong> của phản ứng [45].<br />
N<br />
N<br />
N<br />
P<br />
Me 7P<br />
N<br />
TBD<br />
N<br />
N<br />
N<br />
H<br />
N<br />
N<br />
N<br />
DBU<br />
N<br />
CH3<br />
MTBD<br />
N<br />
H 17C 8<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 36<br />
H<br />
N<br />
N<br />
N<br />
N<br />
DBN<br />
DCOG<br />
N H<br />
N - P +<br />
N<br />
N<br />
-<br />
N<br />
BEMP<br />
H<br />
N<br />
N<br />
TCG<br />
Hình 1.3 : Công thức cấu tạo của một số baz hữu cơ.<br />
N H
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Do đôi điện tử tự do trên nguyên tử nitơ của TBD không bị cản trở nên cho<br />
phép metanol tiếp cận dễ dàng, trong khi với các bazơ khác đều có chướng ngại lập<br />
thể.<br />
H<br />
H<br />
H<br />
N<br />
N N<br />
TBD<br />
H<br />
H<br />
H H<br />
H<br />
N<br />
N P<br />
BEMP<br />
N N<br />
H H<br />
Hình 1.4: Công thức lập thể của TBD, BEMP, Me7P<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 37<br />
H<br />
N<br />
N<br />
P<br />
Me7P<br />
H<br />
N<br />
N<br />
Kết quả so sánh hoạt tính xúc tác của TBD với các loại xúc tác thông thường<br />
trong công nghiệp (NaOH và K2CO3) được trình bày trong Bảng 1.12.<br />
Bảng 1.12: Bảng so sánh hoạt tính các loại xúc tác<br />
NaOH K2CO3 TBD<br />
Nồng độ xúc tác, % 1 1 2 3 1 2 3<br />
Hiệu suất sau 1 giờ 98,7 84,0 90,3 92,4 89,0 91,4 93,0<br />
Hiệu suất phản ứng với xúc tác và TBD gần bằng những phản ứng tương tự<br />
xúc tác NaOH và không có sản phẩm phụ là xà phòng. Khi so sánh với K2CO3,<br />
TBD luôn hoạt động hơn ngay cả ở nồng độ thấp. Mặc dù TBD kém hoạt động hơn<br />
natri metoxit nhưng nó không yêu cầu bất cứ điều kiện đặc biệt nào.<br />
H<br />
H
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
1.10. Giới thiệu về đặc tính sinh <strong>học</strong> cây Jatropha curcas L.<br />
1.10.1. Đặc điểm của cây jatropha<br />
Jatropha là cây bụi, vỏ xám nhẵn, có nhựa màu hơi ngà, loãng. Cây thường<br />
cao 3 <strong>–</strong> 5 m, trong các điều kiện thích hợp cây có thể cao 8 <strong>–</strong> 10 m. Lá rộng xanh<br />
hoặc xanh nhạt, 3 <strong>–</strong> 5 lá đối nhau xoắn ốc quanh trục. Cuống lá 6 <strong>–</strong> 23 cm (Hình<br />
1.5).<br />
Hình 1.5: Cây jatropha trưởng thành.<br />
Cụm hoa ở nách lá, hoa đơn tính và hoa cái thường to hơn hoa đực, ra hoa<br />
vào mùa hè (Hình 1.6). Cây thụ phấn nhờ côn trùng, đặc biệt là ong mật (Hình 1.7).<br />
Hình 1.6: Hoa cây Jatropha.<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 38
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Hình 1.7: Cây thụ phấn chủ yếu nhờ ong.<br />
Quả hình thành vào mùa đông khi có sự rụng lá hoặc hình thành quả trong<br />
năm nếu có độ ẩm tốt và nhiệt độ thích hợp tương đối cao. Mỗi cụm hoa cho<br />
khoảng 10 bầu quả (Hình 1.8). Quả hạt chiếm hàm lượng nước nhiều nhất, khoảng<br />
77,03% khối lượng hạt. Quả có tỷ trọng 0,95 g/cm 3 [64].<br />
Hình 1.8: Quả jatropha lúc còn tươi.<br />
Vỏ quả hình thành sau khi hạt trưởng thành và thịt quả khô. Hạt trưởng thành<br />
sau khoảng 2 <strong>–</strong> 4 tháng khi vỏ quả chuyển từ xanh sang vàng (Hình 1.9).<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 39
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Hình 1.9: Quả jatropha chín và thu hoạch.<br />
Khi quả khô có 3 ngăn và vỏ quả màu đen (Hình 1.11). Hạt có vỏ hơi đen,<br />
hình thuôn dài, có khối lượng khoảng 0,7 gam (Hình 1.10). Trong hạt có vỏ và<br />
nhân, hàm lượng nước trong vỏ nhiều hơn trong nhân. Tỷ khối của vỏ và nhân<br />
tương ứng là 1,04 g/cm 3 ; 1,02 g/cm 3 [64]. Cây sinh trưởng và có thể khai thác trong<br />
vòng 30 <strong>–</strong> 40 năm.<br />
Hình 1.10: Hạt cây jatropha chín<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 40
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
Hình 1.11: Quả jatropha khi chín khô.<br />
1.10.2. Điều kiện sống của cây Jatropha Curcas L.<br />
Theo vùng khí hậu, jatropha thấy ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới,<br />
nóng, mặc dù sống tốt ở vùng nhiệt độ thấp và có thể chịu lạnh nhẹ. Nhu cầu nước<br />
rất thấp và có thể chịu hạn trong một thời gian dài bằng cách rụng lá để giảm lượng<br />
thoát hơi nước. Jatropha cũng thích hợp cho ngăn chặn xói mòn đất và rửa trôi cát.<br />
Thích hợp với độ cao 0 <strong>–</strong> 500 m, nhiệt độ trung bình: 20 <strong>–</strong> 28�C, lượng mưa trung<br />
bình 300 <strong>–</strong> 1.000 mm. Sinh trưởng trên đất thoát nước và thoáng khí, thích nghi với<br />
vùng đất khó canh tác do nghèo dinh dưỡng. Trên đất nặng, sự hình thành rễ giảm.<br />
Jatropha sinh trưởng ở hầu khắp các nơi, thậm chí trên cả đất sỏi, đất cát và đất<br />
mặn. Chúng có thể sinh trưởng tốt trên đất đá nghèo ngay cả trên vách núi đá.<br />
Jatropha là loài có khả năng thích nghi rộng nhưng tiềm năng sinh trưởng của chúng<br />
thể hiện ưu thế nhất trên đất khô và nghèo kiệt [41].<br />
1.10.3. Phân bố<br />
Cây jatropha được cho là có nguồn gốc từ Mexico và trung Mỹ, sau đó được<br />
chuyển sang châu Phi, châu Á và hiện nay đã trở thành loài cây phổ biến trên toàn<br />
thế giới. Ở Việt Nam, jatropha có mặt từ rất sớm, mọc nhiều ở những vùng núi, chủ<br />
yếu được người dân trồng để làm hàng rào.<br />
Cây jatropha là loài cây đa tác dụng; hạt được sử dụng làm nguyên liệu cung<br />
cấp cho công nghệ sản xuất <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> (biofuel). Kết quả thử nghiệm cho<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 41
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
thấy cứ 1 hecta cây jatropha sẽ cho 1.000 <strong>–</strong> 3.000 lít dầu diesel sinh <strong>học</strong>. Tất cả bộ<br />
phận của cây jatropha đều có ích như làm phân bón, lấy gỗ, làm than gỗ, làm thuốc.<br />
Hạt cây jatropha sau khi ép sẽ cho 60% bã chứa chứa 20% protein có thể dùng làm<br />
phân hữu cơ phục vụ nông nghiệp rất tốt. Trong từ điển cây thuốc và động vật làm<br />
thuốc ở Việt Nam có viết: Nhựa mủ cây jatropha được dùng ngoài để trị vết thương,<br />
cầm máu, chữa bỏng, bệnh ngoài da; dịch ép lá bôi ngoài chữa trĩ; dầu hạt trị bệnh<br />
da, thấp khớp, đau dây thần kinh hông, liệt..., các bộ phận còn lại của cây như thân,<br />
ngọn, lá, vỏ, rễ, nhựa... đều có thể dùng để làm thuốc trị bệnh: cầm máu, nhuận<br />
tràng (nhựa cây); trĩ phù, rắn cắn (rễ cây); trị bệnh sốt rét, bạch cầu (lá cây).<br />
Jatropha là cây chịu hạn, có thể trồng trên các vùng đất khô cằn, là loài cây rất thích<br />
hợp cho việc cải tạo và phủ xanh những vùng đất hoang hóa.<br />
Trên thế giới, các nghiên cứu về cây jatropha trong việc cung cấp nguyên<br />
liệu cho công nghệ sản xuất biodiesel đã được thực hiện tại các nước như: Úc, Ấn<br />
Độ, Trung Quốc... Nghiên cứu về các ứng dụng dược liệu của cây jatropha như<br />
thành phần trong thức ăn kiêng [53], đặc tính chống virus, chữa mụn cơm, làm liền<br />
sẹo, hoạt tính chống nấm, chống virus, chống HIV. Nghiên cứu về các thành phần<br />
hóa sinh của cây và hạt jatropha như hoạt tính esterase và lipase [65], lectin [23];<br />
tính chất tẩy; hoạt chất enzym [31], đồng thời cũng có nhiều công trình nghiên cứu<br />
độc tính, thành phần các chất trong tinh dầu cây jatropha. Các kỹ thuật về nhân<br />
giống và gây trồng cây jatropha như nuôi cấy mô, phát sinh hình thái và tái sinh<br />
trong nuôi cấy in vitro [59], nhân hom, gieo hạt, mật độ trồng.<br />
Hiện nay cây jatropha được gây trồng dưới 2 hình thức phổ biến là trồng<br />
phân tán và trồng rừng tập trung trên diện rộng: Brazil, Ấn Độ và gần đây là Trung<br />
Quốc cũng là nước đang phát triển mạnh cây jatropha với diện tích trồng dự kiến<br />
hàng triệu hécta. Ở nước ta, cây jatropha được nhân dân trồng phân tán, chủ yếu để<br />
làm hàng rào. Tiến sĩ Lê Võ Định Tường (Phân viện Hóa <strong>học</strong> và các hợp chất thiên<br />
<strong>nhiên</strong> Hồ Chí Minh), đã nghiên cứu khảo nghiệm các dòng giống cây jatropha có<br />
xuất xứ ấn Độ tại các tỉnh như Đồng Nai, Bình Thuận. Năm 2007 đại diện của Công<br />
ty Ecocacbon của Pháp thỏa thuận với UBND tỉnh Thanh Hóa về dự án trồng cây<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 42
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
jatropha với diện tích ban đầu 10 ngàn hécta trên các vùng đất gò đồi hoang hóa của<br />
tỉnh Thanh Hóa. Hiện đang tiến hành nghiên cứu thử nghiệm nhỏ về loài cây này tại<br />
Thường Xuân và Như Thanh, Thanh Hóa. Các đơn vị như Sở Nông nghiệp và Phát<br />
triển nông thôn Lai Châu, Sở <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> Công nghệ Sơn La đã có kế hoạch cho việc<br />
trồng thử nghiệm cây jatropha trên các vùng đất hoang hóa. Ngoài ra còn trồng thử<br />
nghiệm 5 hécta cây jatropha tại Đắc Hà Kon Tum. Thu hái quả chín, lấy hạt tươi<br />
(chưa phơi) từ cây jatropha của người dân trồng làm hàng rào tại Thạch Thành,<br />
Thanh Hóa, Cơ quan kiểm lâm vùng II đã thử nghiệm ép thủ công thu được lượng<br />
dầu thô đạt khoảng 37%.<br />
Một số ưu điểm của cây jatropha. Năng suất dầu thu được trên 1 hécta lớn do<br />
cây có khả năng tạo hạt có hàm lượng dầu cao, rải vụ tốt. Có thể trồng trên những<br />
vùng có lượng mưa thấp (500 mm/năm) và có vấn đề về đất. Những vùng có lượng<br />
mưa cao hơn hoặc được tưới nước thì năng suất đạt được còn cao hơn. Vì thế có thể<br />
trồng ở hầu khắp các vùng, có thể sinh trưởng được trên vùng đất hoang hóa, sa<br />
mạc khi có sự hỗ trợ về nước tưới. Jatropha là cây dễ trồng, sinh trưởng tương đối<br />
nhanh và mạnh mẽ. Có thể sinh trưởng được trên các loại đất thuộc lưu vực sông,<br />
độ màu mỡ kém, đất thoái hóa, đất bỏ hoang, đất trống hoặc các vùng đất khác như<br />
dọc theo các kênh, đường cao tốc, làm hàng rào, đất khô cằn và bán khô cằn, và<br />
thậm chí trên đất nhiễm mặn [41]. Vì những đặc điểm đó, nó có thể được sử dụng<br />
để cải tạo các vùng đất thoái hóa hoặc nhiều vùng đất khác nhau. Hạt dễ thu hái, do<br />
thu hái sau mùa mưa và do đặc điểm cây thấp. Cây jatropha không làm thức ăn cho<br />
động vật. Do hàm lượng N cao nên được làm nguồn dinh dưỡng cho cây trồng. Cây<br />
cho năng suất 0,4 tấn hạt/ha/năm trong năm đầu tiên, tăng lên 5 tấn hạt/ha/năm sau<br />
3 năm. Cây bắt đầu cho sản lượng hạt cao từ năm thứ 2 trở đi. Nhiều bộ phận khác<br />
nhau của cây có giá trị về dược liệu vỏ cây chứa tanin [41], hoa hấp dẫn ong mật và<br />
do đó cây có tiềm năng cho tạo mật ong. Vì là thực vật, một phần do sinh trưởng<br />
nhanh jatropha sẽ hấp thụ cacbon từ khí quyển, dự trữ trong các mô sống và tích lũy<br />
trong phần cacbon của đất, do đó đây là loài rất thân thiện với môi trường. Có thể<br />
tạo cây con từ hạt sau 3 tháng hoặc bằng giâm hom. Nhân hom bằng cành dễ dàng<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 43
<strong>Trường</strong> ĐH <strong>Khoa</strong> <strong>học</strong> <strong>Tự</strong> <strong>nhiên</strong> - Luận văn Thạc sỹ Hóa <strong>học</strong> - 2010<br />
và đạt được sự sinh trưởng nhanh. Cây trồng không yêu cầu khắt khe về loại đất,<br />
trồng cấy, chăm sóc, thu hái đều thuộc lao động giản đơn.<br />
Phát triển trồng rừng cây jatropha sẽ đáp ứng được 2 yêu cầu cung cấp<br />
nguyên liệu cho sản xuất <strong>nhiên</strong> liệu sinh <strong>học</strong> trên quy mô lớn, phủ xanh và cải tạo<br />
những vùng đất hoang hóa nghèo kiệt khó khai thác. Bên cạnh đó cây jatropha còn<br />
có thể trở thành đối tượng tiềm năng cho trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch<br />
(A/R-CDM). Cơ quan kiểm lâm vùng II đã trực tiếp nhân giống và thử nghiệm tạo<br />
cây giống các xuất xứ AD - N; AD - B; AD - 2; AD - TL4; AD - 1; Bt 607 và đã tạo<br />
được khoảng 3 vạn cây con từ các lô hạt giống nói trên đồng thời tiến hành thu hái<br />
hạt giống trên địa bàn Thạch Thành, Thanh Hoá về tạo giống. Do hạt giống thu hái<br />
được ít nên chúng tôi đã tạo cây giống băng cành (hom), lượng cây giống bằng hạt<br />
và hom trên đã được trồng thử nghiệm trong đề tài: “xây dựng đường băng xanh cản<br />
lửa góp phần bảo vệ rừng cho các tỉnh Bắc Trung bộ” tiến hành trồng thử nghiệm<br />
trên 4 điểm: Hà Trung - Thanh Hóa, Bài Sơn - Đô Lương - Nghệ An, Bến Hải -<br />
Quảng Trị và Phong Điền - Thừa Thiên Huế, hiện đang trong quá trình theo dõi,<br />
chăm sóc và bảo vệ<br />
Nguyễn Mộng Hoàng 44