You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
Số 2 - Tháng 5 Năm 2020
____________________________________________________________________________________[Tapez ici]
[Tapez ici]
[Tapez ici]
Ban Biên Tập
• Ngọc Anh
• Nguyễn Hải Bình
• Trang Châu
• Thy Phương Lê Hoàng Điệp
• Khánh Giao Phùng Văn Hạnh
• Thảo Linh Phạm Xuân Hiền
• Dương Nghiệp Huân
• Tâm Huyền
• Văn Ngọc Nguyễn Ngọc Lang
• Sương Mai
• Cấn Thị Bích Ngọc
• Hải Phong
• Mai Bình Phương
• Lê Quốc
• Tố Quyên
• Kiều Sơn
• Nguyễn Tài
• Tiểu Thu Nguyễn Thu Thu
• Nguyễn Khuê Tú
• Yên Vũ
Chủ nhiệm - Chủ bút
• Trang Châu
Thực hiện - Trình bày
• Dziên Hồng Designs
Thư từ và bài vở xin liên lạc:
lvtrangchau@yahoo.ca
Lá thư Văn Bút
e
Book 2 của Văn Bút/Vùng Québec-Ontario
được thực hiện giữa lúc đại dịch Covid 19
đang gây tang tóc trên địa cầu, và thời gian
hủy diệt kéo dài còn chưa biết đến bao lâu. Trong
chúng ta, may mắn cho đến hôm nay, không có ai
vướng phải căn bệnh lây lan hiểm nghèo này. Nhưng
thơ văn chúng ta đã phảng phất mùi cay đắng về thân
phận con người, về những oan trái trong xã hội mà hệ
lụy này mang tới.
Hưởng ứng lời kêu gọi của ban thực hiện eBook của
Hội, mỗi người viết đã có nỗ lực đáng kể trong việc
chăm sóc bài viết của mình, giúp nhẹ gánh cho ban
thực hiện và tiếp sức cho chuyến đi đường dài.
Xin nhắc lại eBook là nơi chúng ta hội tụ để, qua sáng
tác, tâm tình, chia sẻ giữa chúng ta với nhau cùng với
một số thân hữu. Ở đây không có cao thấp, không có
trên dưới; ở đây chỉ có vòng tròn ngồi bên nhau, nghe
nhau, mở lòng cho nhau, học hỏi lẫn nhau trong tinh
thần văn hữu.
eBook 2 này đến tay quí anh chị đúng vào thời điểm
Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại bầu lại Ban Chấp Hành/
Trung Ương nhiệm kỳ 2020-2023. Đường lối của Văn
Bút/ Vùng Québec-Ontario từ trước đến nay chưa bao
giờ thay đổi: Ban Chấp Hành/ Trung Ương nào, bằng
hành động, thể hiện tình đoàn kết chúng ta tích cực
hợp tác trong khả năng có được. Ban Chấp Hành/
Trung Ương nào chỉ gây chia rẽ, xáo trộn chúng ta chỉ
im lặng làm trọn nhiệm vụ của mình với Văn Bút
Quốc Tế mà thôi.
Xin chúc mọi người may mắn, bền sức và vững tay
bút để vượt qua cơn sóng gió này.
______________________________________________________________________________
______[Tapez ici] [Tapez ici] [Tapez ici]
Mục lục
Tác giả Tựa bài Thể loại Trang
• Quan Âm Bồ Tát mẹ hiền ơi! Thơ 4
Dương Nghiệp Huân
• Covid-19
Thơ 5-6
Khánh Giao -
Phùng Văn Hạnh
Trang Châu
Đặng Vũ Vương (translator)
Hải Phong
Sương Mai
Mai Bình Phương
Nguyễn Tài
Yên Vũ
• Tưởng nhớ
• Cháu cười
• Nhà Tiên tri (Kỳ 2)
• Gửi người đồng nghiệp trẻ
To a young colleague (dịch)
• Tháng tư, nhìn lại
• Ai về nhắn với Chu Công Cẩn...
• Tôi đã thấy…
• Sông và biển
• Nhớ…
• Nghi ngờ
• Kỷ vật cho em
• Ai trách ai bây giờ?
• Những giọt mưa cuối tuần
• Một ngày để tùy nghi
• Nỗi lòng người xa quê
• Gửi tình
• Tìm nhau trong tuyệt vọng
Hồi ký
Thơ
Dịch thuật
Thơ
Anh ngữ
Thơ
Truyện xưa
Đoản văn
Thơ
Thơ
Thơ
Truyện ngắn
Thơ
Tùy bút
Tùy bút
Thơ
Thơ
Thơ
7-14
15-16
17-21
22-23
24-25
96-97
26-37
78-79
38
39
40
41-46
47
48-49
50-51
52
53
54
Lê Quốc • Một hiện tượng văn học lạ Tùy bút 55-60
Nguyễn Hải Bình
• Biệt hành
• Biệt hành - Phạm Cao Tùng
• Đường về
Thơ
Nhạc phổ thơ
Thơ
Tiểu Thu • Cố nhân Truyện ngắn 64-74
Văn Ngọc
Thảo Linh Phạm Xuân
Hiền
• Vi khuẩn thăm Tàu
• Tương tư
• Lỡ hẹn
• Biển nhớ
• Nhớ ngày đau thương
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thy Phượng • Như cơn gió thoảng Tùy bút 82-91
Kiều Sơn • Hình vui mùa Covid Sưu tầm 92-95
Bích Ngọc • Một thời để nhớ Tùy bút 98-103
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mục Lục 3
61
62
63
75
76
77
80
81
ỏa tai xứ Úc mới vừa rồi
Lại đến Cô Vy khắp mọi nơi
Mới đó xót xa Ý khốn khổ
Giờ đây sửng sốt Mỹ rụng rời
Thương người hấp hối xa con cháu
Tội kẻ cách ly gần tháng trời
Biết đến bao giờ mới hết nạn?
Quan Âm Bồ Tát mẹ hiền ơi!
Dương Nghiệp Huân
Montréal 31-03-2020
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Dương Nghiệp Huân 4
Ah grâce à lui le Coronavirus
Le télétravail devient la norme
On nous dit de se laver les mains avec de l'eau
propre
Savon et Purell, maintenant c'est la mode
Surtout ne touchons pas au nez, à la bouche et aux yeux
Ne serrons plus les mains, mais saluons comme le Bouddha
Entre deux personnes, gardons au moins un mètre de distance
N'oubliez pas de couvrir la bouche quand vous toussez ou éternuez
À moins que vous vouliez paniquer les autres
Et les masques N95 sont maintenant très "hot"
Car il n'en reste plus dans les stocks!
Mais le cauchemar de tout le monde
C'est la chasse aux papiers de toilette, mais voyons donc!
Dorénavant j'apprécie de Gollum!
Il y a des personnes qui disent que c'est fou et ridicule
C'est vrai mais je trouve que grâce à sa pénurie
On sait les apprécier et les utiliser de façon raisonable sans gaspillage
Maintenant on parle de la distanciation sociale
Simplement pour nous protéger, en évitant la contagion éminente à nos
proches
Fini le cinéma, les théâtres, les bars, les gyms, les églises et les temples
Fini les voyages en croisières ou en avion
Peut-être c'est une bonne chose pour nous sauver de l'argent
Peut-être c'est le moment de nous calmer
Pour trouver le bonheur intérieur
Au lieu de nous sentir emprisonnés dans la quarantaine
Nous ferons des voyages virtuels
En lisant un livre, écoutant la musique ou regardant un film
Nous pourrons aussi écrire un journal, une chanson, une pièce de musique ou des
poèmes
Dans la rue, au métro ou dans les stations de train
Soudain il y a moins du monde
Un sentiment de solitude envahissant
Mais il y a aussi une sorte de sérénité
Dans la tranquillité nous découvrons nos sens
Le son devient plus distinct et le ciel plus bleu
Nous respirons l'air plus fraîche du printemps qui va venir
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Dương Nghiệp Huân 5
Oui la vie est encore belle
Car on sait qu'il y a des personnes qui nous aiment
Ou au moins, il y a une personne qui nous tient à cœur
Elle est peut être proche ou très loin...
Nous voulons dire Merci aux politiciens et aux autorités
aux médecins, aux infirmières, infirmiers et aux travailleurs dans le domaine de la santé
qui travaillent fort pour notre sécurité et bien-être jour et nuit
Nous savons que la vie est encore très difficile
Tant que le Coronavirus est encore là et nous n'avons pas de vaccin
Mais ce qui a un début doit avoir une fin
Nous détestons les virus, c'est certain
Mais nous comprenons aussi qu'ils sont le produit des êtres humains
Ils ne tombent pas du ciel
Ils sont nos propres orphelins
Il n'y a pas, certainement, des effets sans causes
Ils nous rappellent d'être responsable de ce qu'on fait
Si nous voulons un beau futur, pensons à ce qu'on sème aujourd'hui
Coronavirus est venu pour nous réveiller et nous donner la leçon de l'entraide, de la
collaboration et de la solidarité
Oui nous devons avoir l'amour, la compassion, le pardon et la pitié
Coronavirus a attaqué le poumon
La respiration difficile, soif de l'air nous rappelle que les forêts ont souffert aussi
Nous devons protéger notre Terre sans la polluer, mais l'embellir
Nous devons cesser montrer du doigt, les chicanes et la guerre
Car nous sommes tous sœurs et frères et compatriotes dans la même famille sur la
"Planète Terre"
Coronavirus est venu et nous quittera
COVID-19 sera un jour pas loin une page de l'histoire
Alors gardons nous nos espoirs
Ensemble nous prions et faisons tout pour notre Santé et Bonheur
Pour les personnes décédées, nous prions qu'elles soient aux Cieux pour une vie
éternelle.
Namo Buddhaya
Dương Nghiệp Huân
Montréal 16-03-2020
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Dương Nghiệp Huân 6
C
ha tôi qua đời cách đây một tháng.
on cái làm việc nơi xa tụ tập về để
tiễn đưa người cha thân yêu về nơi yên
nghỉ cuối cùng. Sau lễ an táng một tuần,
lần lượt các anh chị tôi, trở về nhiệm sở
làm việc. Có người theo chồng về tận Âu
châu. Vài ba người khác về từ bốn chân
trời nước Mỹ rộng lớn. Ngay Canada cũng
cách nhau hàng 600 km. Lại một lần ly
tán. Nhớ hồi máy bay chở gia đình 6 người
từ phi trường Palawan đến Ottawa. Xuống
phi cơ phải đi theo hành lang dài dặc của
phi trường. Qua một khúc ngoặt hành lang
thấy mấy anh đang đợi. Ùa chạy lại ôm
chặt nhau. Bao nhiêu năm xa cách. Câu
chuyện nổ như bắp rang. Trên đường về
nhà anh Trân, nhìn thành phố Ottawa, với
những ngôi nhà thấp xinh xắn, những cao
ốc nhấp nháy muôn vạn ánh đèn, giống
như lạc vào cõi tiên. Đêm ấy cũng là đêm
thần tiên với chúng tôi. Nhà anh Trân thuê
nhỏ, vì anh ở một mình. Cả nhà 9 người
trải nệm lên tấm thảm phòng khách nằm
chung để nói chuyện cho dễ. Tuy vui
sướng, nhưng rồi giấc ngủ cũng đến, bắt
đầu là mấy em nhỏ. Mới đó mà đã hơn 30
năm.
Sau tang lễ, tôi nán ở lại bên mẹ tôi, để bà
bớt cô đơn, buồn thảm. Nhân rảnh rỗi, tôi
xuống tầng dưới nhà để tìm lại những sách
vở cũ mà tôi bỏ lại nhà cha mẹ, lúc đi lấy
chồng. Tình cờ tôi thấy trên giá sách cái
cặp cũ của cha tôi đầy ắp giấy tờ. Tôi
mang lên phòng, mở ra xem, thì đây là
những bài cha tôi viết, lúc về hưu. Viết cho
con cái, cho bạn bè. Có những sáng tác thơ
văn hoàn chỉnh hay còn lở dở.
Cha viết: ''Những năm cuối đời của ba,
các con có gia đình riêng, làm việc mỗi
nơi xa, cha thường gửi E-mail tâm tình với
các con về chuyện sống cho phải đạo''.
Con còn nhớ một lần cha nói: "ngày nào
đó ba sẽ ra nằm một mình ngoài tuyết lạnh
vĩnh viễn. Chắc buồn lắm''. Cha ơi, cha
đâu có buồn nữa cha! Chúng con mới buồn
cha ạ. Ngày đưa cha ra nghĩa địa, một buổi
chiều Đông tuyết trắng xóa. Cây cối chỉ là
những nhánh cành đen đủi in lên bầu trời
đục như sữa. Xứ lạ, quê người. Buồn da
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 7
diết. Ở nơi vĩnh hằng, chắc cha muốn các
con cười lên, sống yên vui.
Khi cha còn sống, mỗi lần mừng tuổi cha
chúng con viết trên thiệp: "to a special
Dad". Vâng, cha đã trang bị cho chúng con
những hiểu biết để vào đời với tự tin,
những nguyên tắc để tổ chức một cuộc
sống hài hòa giữa nội tâm và ngoại cảnh.
Có một chuyện cha kể xem như mẫu mực
cuộc sống hài hòa. Đó là một truyện ngắn
của một văn sỹ Pháp. Đại khái câu truyện
như sau:
Trong một trường tiểu học vùng quê
nước Pháp, ông giáo ra một đề luận cho
học sinh: "Các em đã học qua lịch
sử nước ta và biết nhiều vị anh hùng. Em
hãy tả vị anh hùng mà em ưa thích. Hãy
nêu lên lý do vì sao ưa thích". Cả lớp chăm
chỉ làm bài. Riêng có một em bé, cắn quản
bút, ngồi tư lự. Thầy giáo đi qua thấy thế
liền bảo: "em lo làm bài đi chứ, kẻo hết
giờ".
Em bé đứng dậy, bẽn lẽn, thủ thỉ vào tai
thầy: "Con thấy cha con là một vị anh
hùng con ưa thích. Con muốn tả, song sợ
lạc đề, nên do dự mãi". Thầy giáo cũng
ngạc nhiên, vì trong làng nhỏ mà ông dạy
học, ông biết gần hết mọi người. Cha em
bé là kỹ sư Thévol. Có gì mà anh hùng.
Song ông nghĩ nên tôn trọng ý kiến của em
bé, nên ông bảo: "Nếu em thấy cha em là
vị anh hùng mà em yêu thích thì em cứ tả".
Nó ngồi xuống, viết một mạch, và nộp bài
đúng giờ.
Tối hôm ấy về nhà, ông tò mò lấy bài luận
của em bé ra xem trước. Nó tả:
"Em có học lịch sử, và biết nhiều vị anh
hùng như Jeanne D’Arc, Charlemagne,
Napoléon v. v. Song không vị nào em ưa
thích bằng cha em. Cha em là một vị anh
hùng chân chính.
Người ta bảo anh hùng thường rất mạnh.
Cha em mạnh lắm. Cha em có thể chống
hai gối, hai tay, bò quanh phòng, chở em
và hai em nhỏ trên lưng, một cách ung
dung, thỉnh thoảng vùng vẫy và rống lên
như con bò vậy. Mạ em kể cũng mập và
nặng. Thế mà cha em có thể bồng mạ lên
thang lầu dễ dàng, vừa cười ỏn ẻn.
Người ta nói anh hùng rất thông minh.
Cha em thông minh lắm. Bài toán nào khó
em hỏi, ba cũng giải đáp rõ ràng. Các câu
hỏi khoa hoc cũng thế. Những thắc mắc
của em thuờng ngày, cũng được cha giải
thích tường tận.
Người ta bảo anh hùng giúp ích mọi
người. Cha em cũng thế. Mỗi lần em theo
cha đi chơi quanh làng. Ai ai cũng niềm
nở cám ơn cha em: - "Chào ông Thévol,
ông chữa máy bơm nước cho tôi bây giờ
chạy rất tốt". - "Cám ơn ông Thévol, ông
chữa cái truyền hình của tôi, bây giờ hình
ảnh rất rõ".
Tóm lại cha em là một vị anh hùng mà em
thích nhất. Cha em đem lại vui vẻ cho con
cái, hạnh phúc cho gia đình, tiện nghi,
thoải mái cho mọi người. Các vị anh hùng
trong sử sách, ngoài việc hữu ích cho xã
hội, còn mang lại chiến tranh, chết chóc.
Với ba em, chỉ có hòa bình và an lạc".
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 8
Với chuyện kể vừa rồi, chắc cha muốn
khuyên chúng con có cuộc sống bình
thường, hòa hợp với xã hội. Là người cha
tốt, là người mẹ gương mẫu, là người có
ích cho những người chung quanh,không
có tham vọng làm anh hùng lớn, nhưng là
những anh hùng nhỏ vô danh như ông
Thévol. Cũng như ở Canada người ta vừa
vinh danh một thiếu nữ nhảy xuống sông
để vớt người suýt chết đuối.
Trong một Email khác cha viết: Đừng có
ảo tưởng cải tạo xã hội. "Vivre et laisser
vivre". Sống và để người khác sống. Nếu
mỗi người bình thường chu toàn bổn phận
mình, xã hội
sẽ tiến bộ
trong hòa
bình hạnh
phúc. Những
người có
tham vọng
lớn như
Hitler, Stalin,
Mao, Hồ, là
những người
gây xáo trộn
lớn trong xã
hội, gây nên những cơn sóng thần, xô ngã
các gia đình yên vui trôi giạt trong đớn
đau, tan nát. Hai câu thơ của Nguyễn công
Trứ:
Làm trai đứng giữa trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
xua thanh niên Việt vào con đường kiếm
danh. Có người đã đốt một trong 8 kỳ công
thế giới, mong có danh để lại đời sau.
Danh cụ Nguyễn nói dĩ nhiên là danh
thơm. Song làm ngươi ham kiếm danh như
họ Hồ chẳng hạn, tự ví mình như Đức Trần
Hưng Đạo, tiêu diệt các đảng phái đối lập,
để độc quyền đi vào lịch sử. Dĩ nhiên đó
không phải là danh thơm mà là ô danh.
Nếu cụ Trứ sống đến ngày nay chắc là cụ
sẽ viết:
Làm người trên cõi đời bi thảm
Phải sống hài hòa với anh em.
Milan Kundera trong "Immortality", mô tả
bao nhiêu người muốn đi vào bất tử, đã
hành động lố lăng. Tính bất tử gắn liền với
tài ba thật sự. Goethe không đi tìm bất tử,
song những say mê của Goethe làm các
thế hệ theo sau say mê theo.
Câu chuyện trên y như là mẫu mực mà cha
đã theo.
Chúng con
quên sao
được
những ngày
thơ, cha
bày đồ chơi
mới mua ra
chơi với
chúng con.
Cha đã làm
ngựa cho
chúng con
cưỡi. Mỗi lần té dồn cục là một trận cười
nghiêng ngửa. Nhớ những ngày hè bãi
biển Sơn Chà, cha tập chúng con bơi. Nhớ
những tối cha làm bài với chúng con. Mùa
thi lục cá nguyệt cha ôn bài giùm chúng
con. Ngày gia đình vượt biên, thuyền chật
hẹp, không có chỗ nằm ngủ, cha dắt con ra
be thuyền. Cha nằm ngoài con nằm trong.
Nhờ vậy con mới ngủ được một giấc ngon
lành. Dĩ nhiên là ba phải thức, nắm chặt
điểm tựa, để khỏi rơi xuống biển. Các anh
lớn kể là lúc cha còn làm bệnh viện Đà
Nẵng, mỗi lần đi ra phố, hoặc về chơi các
vùng an ninh quanh Đà Nẵng, thế nào
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 9
cũng có vài người chào cha mà cha không
biết. Hỏi ra thì là những người bị thương
tật đã được cha chữa khỏi:
- Bác sỹ không nhớ tôi? Tôi bị xe cán gãy
cánh tay. Bác sỹ đã chữa lành.
- Tôi bị bỏng vì bom xăng. Bác sỹ đã vá
da cho. Chắc bác sỹ quên tôi rồi.
Có một bác nông phu gặp cha, nằn nì mời
cả gia đình mình ghé nhà ông ăn bắp
nướng. Xưa kia ông bị đau lưng, sau khi
bưng một nong tằm nặng. Lưng đau đến
nỗi ông không lao động được và gia cảnh
sa sút. Sau khi được cha giải phẫu lưng,
ông ta có thể cày bừa trở lại và gia đình
nay sung túc.
Cha thường nhấn mạnh đến lòng bác ái.
"Charity begins at home". Nếu không
thương yêu người thân trong gia đình, thì
bác ái đối với đồng loại chỉ là giả dối. Bác
ái trong từng cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày.
Nhà giáo dục Mỹ Henry James có nói:
"Three things in human life are important.
The first is to be kind. The second is to be
kind. The third is to be kind". (có ba điều
quan trọng trong cuộc đời, thứ nhất là yêu
thương, thứ hai là yêu
thương, thứ ba cũng là
yêu thương). Luôn
luôn hòa nhã, khả ái
thông cảm với mọi
người. Giận dữ là
không bác ái. Nói xấu
là không bác ái. Hãy
giữ lòng thanh thản
trong mọi tình huống.
Như thế ta mới tạo nên
một môi trường hòa
hợp thân thiện. Ngạn
ngữ Đức có câu: "Eine
schoene gesicht ist
nich jedem gegeben, aber eine freundlich
gesicht, konnen wir alle machen" (một bộ
mặt đẹp, không phải ai cũng có, song một
bộ mặt thân thiện thì ai ai cũng làm được).
Mỗi người có một thứ thông minh riêng.
Kẻ thông minh về toán. Kẻ thông minh về
thương mãi. Song mỗi người cần phải có
thông minh luân lý (intelligence morale).
Một trẻ nhỏ có thông minh luân lý sẽ cố
gắng học hành, ngoan ngoãn, vì biết đó là
những điều mẹ cha mong mỏi. Lúc đau nó
không rên rỉ để giảm bớt lo âu của người
thân. Đi bên đau khổ kẻ khác mà dửng
dưng, là không có thông minh đó. Lắng
nghe, chú ý đến tâm tư kẻ khác, biết và
trăn trở khi mình chăn êm nệm ấm, mà
người khác đói khát lạnh lẽo, là có thông
minh luân lý. Thông minh nầy đưa ta đến
cử chỉ bác ái. Thông minh nầy cần được
dạy dỗ, phát triển nơi em bé. Hồi còn bé,
cha hay dẫn chúng con đến thăm những
gia đình nghèo khó, và chúng con tự mình
cho họ tiền dành dụm. Nhiều trẻ em nghèo
láng giềng đến nhà mình, chia đồ chơi với
chúng con. Cha cũng nuôi trẻ em hè phố
trong nhà Là chủ tịch hội phụ huynh học
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 10
sinh cha đã cấp nhiều học bổng cho học
sinh nghèo. Cha mẹ thường cho chúng con
tiền riêng để tự mua sắm những gì mình
thích, nhưng phải trích ra 1% cho từ thiện.
Đến tuổi lớn khôn, cha thường cư xử với
chúng con như bạn. Chúng con không có
tuổi phản kháng, bởi vì chúng con có thể
tâm sự với cha về tình yêu, về những
khủng hoảng tuổi dậy thì. Mẹ cũng như
cha, là người bạn tâm tình của chúng con.
Cha có viết cho chúng con một bài thơ:
Không vui sao được, hỡi các con
Cha sống bao năm trên thế gian
Giữa triệu triệu người đi sóng bước
Bảy miệng kêu cha, thật véo von
Ôi bảy thiên thần của mẹ cha
Nâng niu, yêu quí, phúc chan hòa
Tuổi thơ kỷ niệm không phai nhạt
Tổ ấm trần gian, sống thiết tha
Những ngày cộng sản chiếm quê hương
Cửa nhà, sự nghiệp thảy tiêu tan
Mẹ cha rốt cuộc bàn tay trắng
Của quí nay còn, bảy các con
Mười hai năm tù đầy gian khổ
Hình ảnh các con luôn nhắc nhở
Cho ba phấn đấu, vượt gian nan
Đáp lại hận thù bằng yêu thương
Bài thơ này cha làm trong tù cải tạo.
Chúng con hay chọc quê cha. Anh Trân
nói là chúng con chiêu dụ cho cha thêm
bảy miệng kêu cha nữa. Cô út nhí nhảnh
hỏi: "kêu cha thật véo von là nghe có âm
nhạc trong đó, phải không cha? Tại sao
cha không viết bảy miệng kêu ba thật dễ
thương? Có phải dễ thương là khi nhìn,
còn nghe thì phải là véo von?"
Trong thư cuối cùng ba viết cho chúng
con: "Gia đình mình sum họp ở xứ người
với hai bàn tay trắng. Cơ quan từ thiện
cho áo quần, bàn ghế, giường tủ. Các con
đã cố gắng học hành để giành một chỗ
đứng trong xã hội mới cạnh tranh cao".
Nhiều khi khuya thức dậy, thấy các con
ngồi giữa chồng sách cao, thương các con
quá. Chúng mình ở trong căn hộ thuê có
ba phòng ngủ. Ba cậu con trai một phòng.
Ba cô con gái một phòng. Ngủ chung trên
sàn gỗ thêm ấm ở xứ lạnh khủng khiếp.
Mẹ các con đi làm ban ngày, song vẫn lo
nấu nướng, cung cấp cho cả nhà những
món ăn nóng, ngon. Mẹ còn lo cho các con
bữa ăn trưa bới đem đến trường.
Những ngày ấy thật ấm cúng và đượm tình
thương. Thấy mẹ cực khổ, các con thường
ôm mẹ và ao ước khi ra đi làm, sẽ mua cho
mẹ xe Mercedes, mua vé máy bay cho mẹ
đi du lịch. Nay các con đều ra trường và
có nghề nghiệp vững chãi, có gia đình
riêng, có nhà riêng rộng rãi, tiện nghi. Cha
mẹ cũng có xe riêng, nhà riêng để dưỡng
già, cũng đã đi du lịch năm châu. Chỉ tiếc
là các con không gom lại một chỗ. Thời
làng xã nhỏ hẹp đã qua. Thời quả đất của
loài người đang hình thành. Cha mẹ cám
ơn các con đã thương yêu cha mẹ nhiều và
đem nhiều niềm vui cho cha mẹ lúc tuổi
già cũng như trong quá khứ. Các cháu
cũng mang lại cho ông bà những niềm vui
êm dịu bao la.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 11
Ngày già của cha, áo quần các con sắm
cho vào dịp lễ, dư thừa phải mang cho từ
thiện. Các con lo liệu cho ba từ khăn lau
nhỏ, giày dép, thuốc men. Ngoài ra còn
chở ba đi bác sỹ thường xuyên để sống lâu
cùng chúng con. Ngày mới yêu nhau, ba
mạ cùng đọc quyển "Treize à la douzaine"
của Galbraith thấy một gia đình đông con
vui quá, bèn có ý ấy. Nếu không có biến
cố năm 75, có lẽ gia đình mình cũng đông
hơn. Mỗi con, mỗi đứa một vẻ, làm vui
thêm cuộc sống. Mãi đến ngày hôm nay,
cha mẹ sống chung với hai gia đình nhỏ
các con, dưới một mái nhà. Trong nhà lúc
nào cũng có tiếng trẻ bi bô, chạy nhảy, bữa
ăn đông người, rộn tiếng cười. Những dịp
lễ, các con xa về tụ họp, nói chuyện tíu tít,
chọc phá nhau làm cha mẹ trẻ lại thời còn
sinh viên.
Cuộc đời bản chất vốn bi thảm. Nietzche
trong Ecce homo nói về Văn minh Hy Lạp
và chủ nghĩa bi quan viết những câu đối
thoại sắc bén. Midas hỏi Silène cái gì quí
nhất cho con người. Silène đáp: "hỡi loài
sâu bọ đáng thương, kẻ chỉ sinh ra bởi tình
cờ và đau xót, tại sao ngươi buộc ta phải
nói những điều chẳng làm ngươi vừa lòng
khi nghe. Điều quí giá nhất, mà ngươi
không bao giờ chấp nhận được, là đừng
sinh ra, không hiện hữu, chẳng là gì cả.
Điều quí giá thứ hai là ngươi hãy chết
sớm". Nhưng người Hy Lạp đã tự chế ngự
nỗi bi quan của mình bằng nghệ thuật và
bằng ảo ảnh. Họ đã để lại những đền đài,
điêu khắc, thơ ca, kịch nghệ, và cả triết học
thâm thúy nữa. Các con hãy chế ngự nỗi
cô đơn và bi thảm đời mình bằng nghệ
thuật sống mà các triết gia nhân bản đã
phác họa. Cha con mình đã nhiều lần ngồi
lại bàn thảo về tư tưởng của Kierkegaard,
Jaspers, Heidegger, Nietzche.
Kierkegaard trình bày nhiều lối sống để
chúng ta chọn lựa. Cốt yếu là lựa chọn đầy
ý thức và trách nhiệm. Đức tin tôn giáo và
sự hy sinh chắp cánh cho ta trong hành
động. Nietzche khơi dậy chí hùng cường
theo nhiều lối khác nhau tìm cách điểm
xuyết đời mình một hướng đi lên tốt đẹp
và thánh thiện. "Hôn nhân là ý chí hùng
tráng để cùng sáng tạo một duy nhất cao
hơn những kẻ sáng tạo ra nó". Hệ thống
hóa hiện sinh như Hégel, Marx đưa đến
những sai nhầm nghiêm trọng, bởi vì con
người chưa hiểu hết, và chẳng bao giờ hiểu
hết hiện sinh đang đổi thay không ngừng.
Biện chứng pháp, không nắm được bản
chất của thực tại, đã khiến triết gia hiện đại
không sử dụng nữa. Thay thế vào đó là
hiện tượng luận (phénoménologie).
Jaspers, với tất cả sáng suốt, quân bình dẫn
ta vào kho tàng khôn ngoan nhân loại, để
ta tự mình tìm ra lối sống khôn ngoan.
Tình yêu hiện sinh, chứ không phải từ chối
hiện sinh, mang lại cuộc đời mọi giá trị.
Vả lại không hiện hữu, con người làm sao
có thể phán đoán, đo lường, so sánh, kết
án hiện sinh.
Chúng ta bước vào đời không có sự đồng
ý của chúng ta, sống không thể hoàn toàn
theo ý mình muốn, rồi chết cũng ngoài dự
tưởng. Rõ ràng không phải ta làm chủ vận
mạng mình, mà là một đấng tối cao, là
Thượng Đế. Và một khi Người đã xuống
thế gian mặc lấy thân xác con người, để
chỉ chúng ta lối sống, ta được an ủi biết
mấy. Cô đơn, bi thảm cuộc đời Người đã
sống qua. Lời dặn dò Người đã để lại.
Chúng ta sẽ sống theo lời dặn dò ấy.
Chúng ta đi qua cuộc đời nầy một lần, và
một lần mà thôi. Những điều tốt đẹp gì
chúng ta có thể làm được, những ưu ái gì
chúng ta có thể dành cho đồng loại, chúng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 12
ta làm ngay, không chần chờ, không trao
lại cho ai, không chểnh mảng, bởi vì
chúng ta không còn có cơ hội nữa.
Người dặn dò "yêu người như yêu ta vậy".
Vâng ta phải biết yêu ta, để đời ta mang
nhiều vui tươi, phấn khởi rồi ta yêu người
như yêu ta vậy.
Triết gia Descarte đã nói: Je pense donc je
suis (tôi suy tư tức là tôi tồn tại). Ông
không nói: tôi cảm giác tức là tôi tồn tại.
Descartes đã đặt nặng đời sống tinh thần,
tâm linh. Ông hàng xóm của mình ở
Montréal, người Canadien chính gốc treo
trước nhà một biểu ngữ: « Je choisis le
bonheur » (tôi chọn Hạnh phúc). Ông giải
nghĩa cho cha rằng mục đích cuộc đời là
đi tìm hạnh phúc, và ông ta tìm cảm giác
vui thú.
Nhưng Alexander Solzhenitsyn nói người
ta sinh ra để rồi chết. Chết ở tuổi 89,
A. Solzhenitsyn, người được giải Nobel,
đã minh chứng phần nào những điều ông
ta phát biểu với sinh viên ĐH Harvard 30
năm về trước. Năm 1994 ông trở về Nga,
quê hương mà 50 năm về trước ông bảo vệ
chống Đức quốc xã xâm lăng, và chống
"tai họa của nền nhân bản thiếu tâm linh
và vô tôn giáo" (như ông phát biểu ở ĐH
Harvard) cho đến cuối đời. "Nếu nhân loại
có lý khi cho rằng con người sinh ra để
được hạnh phúc, thì con người đã chẳng
phải chết". Câu phát biểu của ông trước cử
tọa sinh viên năm 1968 đã làm họ bàng
hoàng.
Điều đáng bàn cãi trong phát biểu của
Solzhenitsyn không phải ở chỗ người ta
sinh ra để chết. Sinh viên Harvard đã bàng
hoàng vì, cũng như bao nhiêu người
đương thời, đều cho rằng sự chết là
nguyên do và lý lẽ vì sao tìm kiếm hạnh
phúc thế gian là mục tiêu của hiện sinh con
người.
Solzhenitsyn không đồng ý. Ông cho ý
niệm ấy là sự cốt hoá (ossified: cứng nhắc)
của tiêu đề trường phái Khai sáng
(enlightenment: philosophical movement
in Europe in which reason and
individualism were emphasized at the
expense of tradition).
Đa số sinh viên và giáo sư ngồi nghe văn
sỹ lưu đày Nga nói đều tin tưởng rằng mục
đích của xã hội là giảm bớt sự khổ đau của
nhân loại và xây đắp hạnh phúc. Họ tuởng
những quyển sách xoay chuyển thế giới
"một ngày trong đời của Ivan Desinovich"
và "Quần đảo Goulag" có mục đích phá
hủy xã hội Xô Viết vì nó không giảm được
đau khổ, cũng như không đem lại hạnh
phúc. Họ đã nhầm. Solzhenitsyn không
thích xã hội vật chất, đi tìm hanh phúc
bằng mọi giá của xã hội Mỹ (lâu đài
Playboy của Hugh Hefner, màn thoát y
Las Vegas, kỹ nghệ dục tình và ấu dâm,
những chuyến cruise hào nhoáng, ca khúc
"the material girl" của Madona, đời sống
dịu ngọt dolce vita ở Ý v. v.) nên ông vội
vã quay về Nga sau khi CS sụp đổ
Solzhenitsyn đã xô xát với hệ thống Xô
Viết vì hệ thống này có ý và tự xưng là
bước vào thời kỳ Khai Sáng. Nếu người
hậu Khai Sáng thấy rằng hiện sinh có hạn,
nên phải đi tìm hạnh phúc trên thế gian,
chứ không còn mục đích nào khác, thì
người tiền Khai Sáng nhận xét rằng "cơ
thể mình được tạo ra để chết và hủy hoại"
sẽ kết luận rằng "nhiệm vụ trên trần thế rõ
ràng là có một ý hướng tâm linh".
Người Hậu Phục Hưng (post-renaissance)
nói: "Mục tiêu của đời sống là hạnh phúc
vì chúng ta sẽ chết, Người Tiền Phục
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 13
Hưng (pré-renaissance) bảo: "Mục đích
của cuộc sống không phải là hạnh phúc,
bởi vì anh sẽ chết". A. Solzhenitsyn là
người Tiền Phục Hưng.
Là một bậc sư của văn chương thế kỷ
20, Solzhenitsyn không thua kém tiền bối
Leo Tolstoy thế kỷ 19. A. Solzhenitsyn có
tài kể một câu chuyên, vẽ khung cảnh, và
xác định nhân vật. Ông ta có con mắt nghệ
sỹ và lời nói của tiên tri Sấm truyền cũ.
Ông là một người thần trí bị chà đạp
(alienated) bởi thời đại vật chất XHCN,
nhưng ông không dễ bị thuyết phục và khó
bị hủ hóa hay sợ sệt. Ông không thích Âu
Mỹ. Các thức giả Tây phương đã nhận ra:
trong chiến tranh lạnh, ông là kẻ thù của
kẻ thù ta, nhưng không phải là bạn ta.
Solzhenitsyn cãi cọ chính yếu là với
Erasmus ở Rotterdam, triết gia Hòa Lan,
chứ không phải với Stalin. Erasmus đã dẫn
dắt nhân loại thế kỷ 15 vào đường sai lạc
với những tư tưởng lấy con người làm
trọng tâm (anthropocentric ideas).
Solzhenitsyn cho rằng hệ thống CS mà
ông khinh chê như là một hệ lụy không
tránh khỏi bắt nguồn từ nhân bản Erasmus.
Ông đã phát biểu ở Harvard: "chúng ta đã
đặt quá nhiều hy vọng vào cải cách xã hội
và chính trị, để cuối cùng thấy rằng chúng
ta đã mất một vốn liếng quý là đời sống
tâm linh".
Vâng mục đích cuộc đời là khai sáng
tâm linh. Những gì tốt đẹp, cao cả, sâu
xa, huyền nhiệm chúng ta kết hợp và
sống với tất cả tâm tình. Chính cách
sống ấy mang lại niềm vui, hạnh phúc
tuyệt vời. Không đặt hạnh phúc là mục
tiêu mà chúng ta đi vào cõi Thiên đàng
cả trên trần thế và thế giới vĩnh hằng.
Có thể nói chúng ta là nòi tâm linh, được
sinh ra ở gian trần, chứ không là một hữu
thể nhân hình do tiến hóa Darwin mà ra,
từ khỉ tập tành đời sống con người:
Ta sống cuộc đời nhân loài
Gốc nguồn ta vẫn là nòi tâm linh
(Không phải hữu thể nhân hình)
Tập tành cuộc sống tâm linh trên đời
Khánh Giao - BS Phùng Văn Hạnh
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 14
S
áng xuân nội cháu ra vườn,
Ngắm xem tulip đơm bông đầu mùa.
Cháu ngồi bên cạnh luống hoa,
Ngoan hiền cười nói lòng già rộn vui.
Cháu cười cảnh vật cùng cười
Cười cháu duyên dáng vui tươi lạ thường:
Không gian một đóa hoa hường,
Đôi môi nhuận thắm nét cong tuyệt trần.
Sáng trong răng ngọc trắng ngần,
Mắt cười đen láy ánh băng sáng ngời.
Trán thơ hồ phẳng lặng soi,
Má hồng núng sũng một đôi nụ cười.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 15
T
óc tơ óng ả nắng cài,
Lung linh bên má rũ vai cùng cười.
Chim reo, lá múa, hoa mời
Nhập vào hương sắc một trời vui dâng.
Niềm vui êm ái lâng lâng,
Niềm vui cùng với thiên thần kết giao.
Niềm vui mầu nhiệm dạt dào,
Niềm vui bất tuyệt đi vào bao la.
Vui sao thấy cháu trổ hoa,
Mừng vui biết mấy tre già mọc măng.
Khánh Giao -
BS Phùng văn Hạnh
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 16
Khalil Gibran
The Prophet
Nhà Tiên Tri
Trang Châu chuyển ngữ (Kỳ 2)
Văn Đàn Lá Phong hân hạnh giới thiệu tác phẩm The Prophet của tác giả Khalil
Gibran được nhà văn Trang Châu chuyển ngữ dưới tựa đề Nhà Tiên Tri (Kỳ thứ 2)
L
àm Việc
Bây giờ một nông dân thưa:
- Xin ngài nói về Làm Việc.
Nhà tiên tri đáp:
- Các ngươi làm việc để được bước cùng
nhịp với đất và hồn đất. Vì ăn không ngồi
rồi khiến mình trở nên xa lạ với thời tiết,
tự tách rời ra khỏi đoàn thể của đời sống
đang đường bệ và khuất phục trong kiêu
hãnh tiến về vô tận.
Khi các ngươi làm việc các ngươi như
chiếc ống tiêu, biến tiếng thì thầm của thời
khắc thành những âm điệu.
Ai trong các ngươi là kẻ muốn trở thành
cây sậy câm nín trong khi mọi người đồng
thanh ca hát.
Luôn luôn nguời ta nói với các ngươi làm
việc là một điều bất hạnh và làm công việc
nặng là một nỗi khốn cùng.
Nhưng ta, ta nói với các ngươi rằng khi
các ngươi làm việc các ngươi hoàn tất một
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 17
phần giấc mơ xa xôi nhất của thế gian mà
các ngươi được ủy thác ngay từ lúc giấc
mơ được nẩy sinh.
Nếu các ngươi biết chung lưng trong công
việc thật sự là các ngươi yêu đời.
Và biết yêu đời qua công việc là được
truyền biết bí mật thầm kín của đời sống.
Nhưng vì đau đớn mà các ngươi cho rằng
sinh ra ở đời là một sự buồn thảm và coi
gánh nặng của thể xác như một dấu bất
hạnh ghi trên trán các ngươi, thì ta trả lời
rằng chỉ với mồ hôi đổ ra trên trán các
ngươi mới bôi xóa được những gì khắc ghi
trên trên trán các ngươi.
Người ta nói với các ngươi rằng đời sống
rất tối tăm và trong cơn mỏi mệt các ngươi
lập lại lời của những kẻ mỏi mệt đã nói.
Ta thì ta nói với các ngươi rằng:
Đời sống quả thật tối tăm trừ nơi nào có đà
vươn tới.
Tất cả đà vươn tới đều mù quáng trừ nơi
nào có hiểu biết.
Tất cả hiểu biết đều vô dụng trừ nơi nào
có làm việc.
Tất cả công việc đều vô vị trừ nơi nào có
tình yêu.
Và khi các ngươi yêu công việc các ngươi
tự gắn bó với chính mình, gắn bó cùng
nhau và gắn bó cùng Thượng Đế.
Và thế nào là yêu công việc?
Là dệt tấm áo với những sợi chỉ rút từ lòng
mình như là để cho người yêu mặc.
Là xây một căn nhà với tất cả âu yếm nồng
nàn như là để cho người yêu ở.
Là gieo hạt giống với tất cả dịu dàng và
gặt hái với tất cả hân hoan như là để cho
người yêu ăn trái.
Là gởi tất cả tinh thần vào mỗi thứ các
ngươi dựng nên.
Và nên nhớ rằng những linh hồn đã siêu
thoát luôn ở cạnh các ngươi và phù hộ các
ngươi.
Ta thường nghe các ngươi nói như là các
ngươi nói trong khi mơ ngủ: "Làm nghề
chạm trổ đá cẩm thạch để thấy bóng hồn
mình in trên đá là sang cả hơn nghề nông".
Và: "kẻ lấy màu sắc của móng cầu vồng
trải lên khung lụa, vẽ nên hình dáng người
là sang cả hơn kẻ đóng dép cho đôi bàn
chân".
Ta thì ta nói với các ngươi, không phải
như khi mơ ngủ mà giữa thanh thiên bạch
nhật rằng tiếng gió thổi qua cây đa khổng
lồ cũng không nhẹ nhàng gì hơn khi thổi
qua nhánh cỏ tí hon.
Cây nào biết lấy tình yêu biến đổi tiếng gió
thành cung đàn cây ấy mới thật là cao lớn.
Công việc là tình yêu được cụ thể hóa.
Nếu các ngươi chán ghét công việc mình
làm thì tốt hơn nên bỏ công việc ấy, ra
ngồi ở cửa đền và nhận bố thí của những
kẻ đang làm việc trong vui tươi.
Nếu các ngươi dửng dưng trong khi làm
bánh, các ngươi làm một thứ bánh chua
không đủ no nửa dạ người ăn.
Nếu các ngươi miễn cưỡng trong khi ép
nho, sự hối tiếc của các ngươi là chất độc
nhỏ vào rượu.
Và nếu các ngươi ca hát như những thiên
thần nhưng chính các ngươi không thích
bài hát đó thì coi như các ngươi bít tai
không cho người khác nghe bài hát ấy cả
ngày lẫn đêm.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 18
M
ột thiếu phụ thưa:
Xin ngài luận cho chúng tôi nghe về
Niềm Vui và Nỗi Buồn.
Nhà tiên tri đáp:
- Niềm vui chính là nỗi buồn không dấu
mặt.Và cùng một cái giếng nơi từng
thoát ra nụ cười cũng là nơi từng chứa
đầy lệ.
Nỗi sầu bi càng đào sâu tâm hồn các
ngươi thì các ngươi càng chứa đựng
nhiều niềm vui.
Cái bát rượu các ngươi uống há chẳng
phải là cái bát từng bị hung nóng trong
lò của người thợ gốm?
Và cây đàn ru tâm hồn các ngươi há
chẳng phải là mảnh gỗ từng bị đẽo gọt?
Khi các ngươi vui vẻ các ngươi hãy
nhìn tận đáy lòng các ngươi, các ngươi
sẽ thấy những gì đang mang niềm vui
cho các ngươi chỉ là những gì từng đem
lại nỗi buồn cho các ngươi.
Khi các ngươi buồn bã hãy nhìn lại lần
nữa lòng các ngươi, các ngươi sẽ thấy
sự thật các ngươi đang khóc vì những
gì từng là niềm hoan lạc của các ngươi.
Trong các ngươi kẻ nầy nói: "Niềm vui
thường lớn hơn nỗi buồn", kẻ khác lại
nói: "Không, nỗi buồn lớn hơn niềm
vui".
Ta thì ta nói với các ngươi rằng niềm
vui và nỗi buồn không bao giờ rời xa
nhau. Chúng đến cùng nhau và khi gã
nầy ngồi với các ngươi ở bàn ăn thì các
ngươi hãy nhớ rằng gã kia đang ngủ
trên giường các ngươi.
Sự thật các ngươi bị treo ở một cái cân
giữa niềm vui và nỗi buồn của các
ngươi.
Chỉ khi nào hai bàn cân đều trống trơn
các ngươi mới đứng yên và được thăng
bằng.
Vì không còn cách nào khác hơn.
Khi người giữ kho tàng nhấc các ngươi
lên để cân vàng và bạc, lúc bấy giờ
niềm vui hay nỗi buồn nơi các ngươi
mới được nâng lên hay hạ xuống.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 19
M
ột người thợ hồ tiến đến và thưa:
- Xin ngài nói về Nhà Cửa.
Nhà tiên tri đáp:
- Trong mơ ước của các ngươi hãy xây
một nơi hưu trí ở sa mạc trước khi xây một
ngôi nhà trong thành phố.
Vì khi hoàng hôn xuống các ngươi phải trở
về nhà thì kẻ lữ hành trong các ngươi một
mình ở phương xa cũng cần trở về nhà.
Nhà của các ngươi chính là thể xác lớn
nhất của các ngươi.
Nhà của các ngươi lớn lên dưới ánh mặt
trời và yên ngủ trong im lặng của đêm
trường.
Nhà của các ngươi cũng có những giấc
mơ. Các ngươi có tin nhà các ngươi cũng
biết mơ không? Trong giấc mơ các ngươi
có tin nhà của các ngươi rời thành phố để
dạo qua những rừng cây hay núi đồi?
Ôi! Nếu ta có thể hái được nhà các ngươi
trong bàn tay và, như một người gieo
giống đem đi gieo rắc khắp rừng già và
đồng cỏ. Chớ gì ta có thể biến những thung
lũng thành những đường phố, những lối
mòn xanh um thành những lộ nhỏ cho các
ngươi, để các ngươi có thể tìm gặp nhau
qua các vườn nho, để các ngươi tẩm vào y
phục của các ngươi mùi thơm của đất.
Nhưng bây giờ chưa phải là lúc những
chuyện đó xảy ra.
Trong cơn sợ hãi, tổ tiên các ngươi đã
quây quần các ngươi lại. Cơn sợ hãi ấy sẽ
còn kéo dài một thời gian. Còn một thời
gian nữa những bờ thành của thị trấn vẫn
ngăn chia nơi trú ngụ của các ngươi với
đồng cỏ của các ngươi.
Hãy nói cho ta hay, hỡi dân thành phố Ô
Pha Lê, các ngươi có gì trong những ngôi
nhà ấy? Các ngươi cất giữ gì sau lớp cửa
then cài kia?
Các ngươi có chăng sự an lạc, một thứ thôi
thúc êm đềm thể hiện quyền lực của các
ngươi?
Các ngươi có chăng những kỷ niệm,
những vòm chói lóa xiên ngang chóp đỉnh
của thần trí?
Các ngươi có chăng vẻ đẹp để chuyển
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 20
hướng những vật vô tri như gỗ đá và
hướng dẫn chúng về đi về phía núi Thánh?
Hãy nói cho ta hay, các ngươi có tất cả các
thứ đó trong nhà các ngươi không?
Hay các ngươi chỉ có sự an lạc hay lòng
thèm muốn sự an lạc. Ước muốn phù du
ấy một khi được rước vào nhà nó sẽ trở
thành trước là khách nhưng sau là chủ.
Vâng, nó trở thành như kẻ dạy thú, với
chĩa và đinh ba, nó biến những ước muốn
cao thượng của các ngươi thành những thứ
trò hề.
Tay nó là nhung tơ nhưng lòng nó là sắt
đá.
Nó đứng đầu giường ru ngủ các ngươi và
chế riễu sự trang nghiêm của thể xác.
Nó phỉ báng những vị giác tốt của các
ngươi bằng cách đặt chúng vào một lớp
bông mềm như người ta dùng để đặt quanh
những chiếc bình dễ vỡ.
Sự thật lòng thèm muốn an lạc hủy diệt
đam mê của tâm hồn.
Nhưng các ngươi, những đứa con của
không gian, các ngươi, những kẻ lo lắng
trong khi nghỉ ngơi, các ngươi sẽ không bị
bắt giữ lẫn bị rèn luyện cho thuần tính.
Nhà các ngươi không phải là chiếc neo mà
là một cột buồm.
Nhà các ngươi không phải là một tấm khăn
màu mè che dấu một vết thương, nhà các
ngươi như mí mắt che chở con ngươi.
Các ngươi sẽ không xếp cánh lại để chui
qua cửa, sẽ không cúi đầu để khỏi chạm
trần, cũng không ngại thở vì sợ bức tường
sụp đổ.
Các ngươi sẽ không ở những ngôi nhà mồ
mà kẻ chết xây cho người sống.
Dù được xây nguy nga tráng lệ, nhà các
ngươi không thể chứa đựng những thầm
kín lẫn che dấu ước muốn của các ngươi.
Bởi vì tất cả những gì vô tận nơi các ngươi
sẽ trú ngụ một lâu đài trên thiên giới.
Cánh cửa chính của lâu đài là sương mai
và những cánh cửa sổ là tiếng ca và yên
lặng của đêm trường.
(Còn tiếp)
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 21
A
nh tên Li
Li Wenliang
Cái tên tiền định của chia lìa bi thảm
Tôi cuối đường một đời áo trắng
Anh đầu non sức sống tràn đầy
Chúng ta không quen nhau
Chưa từng hay biết tuổi tên nhau
Chúng ta cách xa nhau ngàn vạn dặm
Lần đầu cũng là lần cuối
Nhìn thấy mặt anh
Chúng ta vẫn còn xa cách
Bởi một chiếc mặt nạ
Chiếc mặt nạ của ngăn chia
Yên lành và bệnh tật
Sự sống và cái chết!
Nhưng chúng ta vẫn gần nhau
Qua cánh tay giương lên
Đọc lời thề Hippocrate:
Với tất cả lương tâm
Chữa lành bệnh tật trong khả năng có
được
Thoa dịu nỗi đau của người thống khổ
An ủi những kẻ khốn cùng
Nhưng người ta đã nhân danh
Cơ quan hữu trách
Biến những lời cảnh giác tai ương
Thành những hành vi phạm pháp
Những tin đồn thất thiệt
Người ta đã che dấu, kiểm duyệt
Tiếng nói của lương tâm!
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 22
Rồi tất cả trở nên muộn màng
Khi gian ngoa không còn lấp che sự thật
Và thảm họa ập xuống
Đời anh, gia đình anh, đất nước anh!
Tôi làm gì được cho anh
Ngoài giòng nước mắt chảy ngược vào
tim
Và con tim nổ bùng bất lực!?
Li
Li Wenliang
Người đồng nghiệp trẻ chưa hề quen biết
Anh đi rồi
Đồng nghiệp còn lại của anh xác quyết:
"Trên đời không có anh hùng trên trời
rơi xuống,
Chỉ có những người bình thường liên
tục tiến lên"
Li
Li Wenliang
Tôi xin nói với riêng anh:
"Mừng anh đã làm đẹp lời thề
Sau một lần đưa tay tuyên thệ".
Trang Châu
Montréal 07-02-2020
LI
LI WENLIANG
CHÚNG TÔI KHÓC ANH
CẢ THẾ GIỚI KHÓC THƯƠNG ANH
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 23
Y
our name is Li*
our full name is Li Wenliang
A fated name of tragic separation
Me at the end of a white coat’s
professional journey
And you still full of vigor at the start of
your career
We don’t know each other
Never aware of each other’s identities
Thousands of miles are lying between us
This is the first time and also the last time
That I saw your face
Even that we are still separated by a face
mask
A mask separating
Well being from illness
And life from death
However, we are close to each other
Through both of us raising raising our
arms
To recite the Hippocratic oath:
That in full conscience
And within our capabilities to cure all
ailments
To alleviate the suffering of those in
anguish
And to offer consolations for those in
distress
But there were people who in the name
Of the responsible authorities
Interpreted the warnings of a coming
disaster
As spreading fallacious rumors
They tried to suppress and to censor
The voices of conscience!
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 24
Then it became too late for everything
When fallacy and lies could not hide the
truth
And disaster struck down
On your life, your family, your country
What I could do for you
Besides the flow of tears running back to
the heart
And from helplessness my heart to
implode?!
Li Wenliang
The young colleague that I never got to
know
You were gone
Your surviving colleagues keep asserting:
"In this world there are no heroes
falling down from heaven
There are only ordinary people
continually going ahead"
Li Wenliang
I would like personally to convey to you
these words:
"Congratulations for embellishing the
oath
That one time with your raised arm
You had sworn to uphold".
*Li (in Vietnamese means separation)
Trang Châu
Montreal February 07, 2020
Translated from Vietnamese poem by Đặng Vũ Vương, M.D.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 25
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
Đ
ó là hai câu thơ của Tôn Thọ Tường
trong bài "Tôn phu nhân qui Thục"
mà tôi được học thời còn ở bậc trung học.
Tôn Thọ Tường đã dùng bài này để biện
minh cho việc ông ra làm việc với chính
quyền Pháp. Bài thơ đã gây ra trận bút
chiến ngoạn mục trong lịch sử văn học
nước nhà, giữa Tôn Thọ Tường và cụ Phan
Văn Trị cùng nhóm bài chống Pháp, trong
thời kỳ nước ta bị Pháp xâm lăng. Tại sao
Tôn Thọ Tường lại ví hoàn cảnh của mình
với hoàn cảnh của Tôn phu nhân? Đó là
chuyện lát nữa, xin xem hồi sau sẽ rõ!
Bây giờ, chúng ta nên bắt đầu bằng chuyện
Tôn phu nhân đã. Tôn phu nhân không xa
lạ gì với những "fan" của truyện Tam
Quốc, nói về một thời kỳ đầy giao động và
khói lửa kéo dài gần 100 năm, và nổi bật
nhất trong giai đoạn đó là sự tranh chấp
giữa ba thế lực chính trị Ngụy (Tào Tháo),
Thục (Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền); trong
đó thế lực của Tào Tháo lớn mạnh nhất, vì
nắm Thiên Tử trong tay, và dùng chiêu bài
"phò Hán" để sai khiến chư hầu. Để chống
lại với thế lực này, Ngô và Thục đã lắm
phen phải liên minh. Tuy ngoài mặt gọi là
liên minh, nhưng hai phe này cũng chỉ
bằng mặt không bằng lòng, nhất là trong
vụ tranh chấp thành Kinh Châu, bên Tôn
Quyền năm lần bảy lượt đòi, bên Lưu Bị
dằng dai không trả, nên cả hai bên đã lắm
phen tìm cách tiêu diệt nhau để dành lấy
đất Kinh Châu, là một địa điểm chiến lược
trọng yếu. Tôn phu nhân đã là một con cờ
trong ván bài chính trị đó, được đặt để vào
một cuộc hôn nhân chính trị, và kết thúc
bằng cái chết để trọn nghĩa phu thê.
Bà tên Tôn Thượng Hương, là con gái út
của thái thú quận Trường Sa là Tôn Kiên;
và là em của Tôn Sách và Tôn Quyền,
những người đã tạo nên cơ nghiệp cho nhà
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 26
Đông Ngô. Bà được mô tả là người tài
giỏi, cương cường như hai anh, thích tập
đao múa kiếm, thị tỳ hơn 100 người lúc
nào cũng đeo gươm giáo đứng hầu.
Năm 209, sau chiến thắng lẫy lừng của
liên minh Ngô-Thục trong trận Xích Bích,
phá tan giấc mộng thống nhất của Tào
Tháo, cục diện chính trị đã hình thành thế
chân vạc; thì ít lâu sau, liên minh Ngô-
Thục lại rạn nứt, hục hặc nhau về chuyện
Kinh Châu. Đúng thời điểm ấy, vợ của
Lưu Bị là Cam phu nhân qua đời. Quân do
thám dò biết về báo với Ngô hầu Tôn
Quyền. Đô đốc Chu Công Cẩn (Chu Du)
thừa cơ hội đó, bàn mưu với Tôn Quyền
toan diệt Lưu Bị, dâng kế xin cho người
sang Kinh Châu giả làm mối Tôn tiểu thư
cho Lưu Bị, rồi lừa cho Lưu Bị sang Giang
Đông, bắt giam lại để làm con tin đánh đổi
Kinh Châu. Tôn Quyền theo kế ấy, sai Lã
Phạm làm ông mai, sang Kinh Châu ngỏ ý
với Lưu Bị nhưng ông từ chối, viện cớ vợ
mới mất, hơn nữa em gái Ngô hầu còn son
trẻ e không xứng đôi vừa lứa.
Lã Phạm phải thuyết phục mãi:
- Tôn quận chúa có nhan sắc, hiền hậu, nếu
hai nhà kết Tấn Tần với nhau thì giặc Tào
Tháo không dám nhìn ngó đến phía đông
nam nữa. Việc này công tư đều có lợi.
Tối đến, Lưu Bị bàn với "quân sư quạt…
lông" Khổng Minh, ông cũng tán thành:
- Tôi bói dịch được quẻ đại cát. Chúa công
cứ nhận lời đi, tôi sẽ nghĩ mẹo khiến cho
Chu Du không làm gì ta được.
Nói rồi sai Tôn Càn cùng theo Lã Phạm về
Giang Đông dâng sính lễ chọn ngày cưới.
Lưu Bị e dè:
- Chu Du muốn lập mưu hại ta, sao quân
sư lại xúi ta lao mình vào hang cọp?
Khổng Minh cười cười:
- Chu Du không che được mắt tôi, tôi chỉ
cần một mẹo nhỏ là bẻ gãy được âm mưu
của Chu Du, chúa công sẽ cưới được em
gái Ngô hầu, mà Kinh Châu cũng không
hề hấn gì.
Nói đoạn gọi dũng tướng Triệu Vân vào
đưa cho 3 cẩm nang, dặn dò cứ theo thứ tự
mà thi hành.
Tháng 10 mùa đông năm ấy, tức năm Kiến
An thứ 14, sau khi giao Kinh Châu cho
Khổng Minh trông coi, Lưu Huyền Đức
(Lưu Bị) dưới sự hộ tống của Triệu Vân,
Tôn Càn cùng 500 tinh binh, dùng chục
chiếc thuyền rời Kinh Châu, vượt Trường
Giang sang Giang Đông ra mắt Tôn
Quyền. Lênh đênh trên sóng nước, lòng áy
náy không yên. Triệu Vân an ủi:
- Quân sư giao cho ba túi gấm, hẳn có mẹo
hay, chúa công đừng lo.
Đến Nam Từ, Triệu Vân y kế của Khổng
Minh, nói Huyền Đức mang rượu và dê
đến ra mắt Kiều quốc lão thuật chuyện
Đông Ngô sai Lã Phạm sang làm mối.
Đồng thời, Triệu Vân sai 500 quân sỹ, áo
thắm quần điều, tấp nập ra phố chợ mua
sắm đồ sính lễ, truyền tin Lưu hoàng thúc
sang làm rể Đông Ngô. Thế là, tin quận
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 27
chúa Đông Ngô sắp được gả cho hoàng
thất nhà Hán lan truyền như nước chảy.
Nói về Kiều quốc lão, là cha của hai cô gái
đẹp nhất Giang Đông thời ấy là Đại Kiều
đã gả cho Tôn Sách, và Tiểu Kiều đã gả
cho Chu Du; nói nôm na Kiều quốc lão là
sui gia với Ngô quốc thái, mẹ của Tôn
Sách và Tôn Quyền. Sau khi được Lưu
Huyền Đức đến bái kiến và báo tin vui,
Kiều quốc lão lật đật vào ngay trong cung
chúc mừng bà sui gia. Ngô quốc thái hỏi:
- Chuyện gì mà chúc mừng?
- Tôn quận chúa sắp làm dâu nhà Hán,
chàng rể Lưu hoàng thúc đã sang đến nơi
rồi, đang rầm rộ ngoài phố sắm sửa dê lợn,
hoa quả để kết hôn, cả thành đều biết, sao
còn dấu tôi?
Ngô quốc thái tá hỏa tam tinh, cho gọi Tôn
Quyền vào hỏi cho ra lẽ và khóc rống lên
rồi mắng:
- Mày thật không coi tao ra gì nữa rồi! Trai
dựng vợ, gái gả chồng là chuyện thường
tình, nhưng mày có gả em mày cũng phải
nói trước với tao chứ? Nay cả thành đều
biết, chỉ có tao, nếu không nhờ Kiều quốc
lão báo tin thì tao cũng không biết gì cả!
Tôn Quyền giật mình, thưa:
- Không phải đâu mẹ! Đó chỉ là kế của
Chu Du, lừa Lưu Bị đến đây để đòi đổi lấy
Kinh Châu, nếu hắn không nghe thì giết
đi, chứ nào phải thật đâu mà mẹ bi thương
đến thế.
Nghe thế, Ngô quốc thái lại còn nổi giận
thêm, réo gọi Chu Du mà mắng:
- Ngươi làm đô đốc, quản lĩnh binh tướng
6 quận, 81 châu, không nghĩ được cách gì
lấy Kinh Châu mà phải đem con gái bà ra
làm mồi nhử để giết Lưu Bị. Mày muốn
cho con bà chưa chồng mà mang tiếng góa
bụa, có phải lỡ dở cả một đời nó không?
Thế mà cũng gọi là mưu mẹo à, hở thằng
kia!
Rồi cứ chửi mắng Chu Du không ngớt.
Kiều quốc lão cũng thêm vào:
- Nếu dùng kế ấy, dù có lấy được Kinh
Châu, cũng bị thiên hạ chê cười.
Tôn Quyền biết lỗi ngồi im thin thít,
không nói được lời gì. Kiều quốc lão can:
- Nay đã lỡ rồi, Lưu hoàng thúc cũng là
bậc hào kiệt thời nay, nếu Quốc thái được
người rể ấy thì cũng xứng đáng, không
làm nhục gì tiểu thư đâu.
Ngô quốc thái ra lệnh Tôn Quyền ngày
mai mở tiệc ở chùa Cam Lộ, mời Huyền
Đức đến để bà coi mắt, nếu ưng thì sẽ cho
cưới. Lã Phạm lại dâng kế với Tôn Quyền,
sai 300 quân đao phủ phục sẵn hai bên
hành lang, nếu Ngô quốc thái không bằng
lòng thì đao phủ đổ ra mà bắt trói Huyền
Đức.
Huyền Đức được tin, bàn với Triệu Vân và
Tôn Càn. Triệu Vân nói:
- Buổi ra mắt ngày mai, dữ nhiều lành ít,
tôi phải đem 500 binh đi bảo vệ chúa công.
Hôm sau, Huyền Đức mặc áo giáp hộ thân,
khoác cẩm bào bên ngoài, cùng Triệu Vân
và đoàn tùy tùng, đao kiếm sáng loáng đi
theo, thẳng đến chùa Cam Lộ, vào ra mắt
Ngô hầu. Tôn Quyền thấy Huyền Đức
diện mạo phi thường, Triệu Vân mặc giáp
bạc, nai nịt gọn ghẽ, oai phong lẫm lẫm,
thì có ý hoảng sợ, dẫn Huyền Đức vào ra
mắt Ngô quốc thái. Bà nhìn thấy Huyền
Đức đường đường có tướng đế vương,
trong bụng mười phần ưng ý, nói với Kiều
quốc lão:
- Người này thật xứng làm rể ta.
Kiều quốc lão cũng chúc mừng:
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 28
- Lưu hoàng thúc uy nghi đường bệ, tướng
mạo như rồng như phượng, nhân nghĩa tỏa
khắp thiên hạ, thật đáng chúc mừng cho
quốc thái kén được rể hiền.
Thế là lộng giả thành chân, Huyền Đức
nghiễm nhiên trở thành rể Đông Ngô. Tôn
tiểu thư không hay biết gì mưu kế của anh,
nghe lời mẹ kết hôn với Huyền Đức. Tính
khí bà uy nghiêm, lúc nào cũng có các nữ
thị vệ gươm giáo tua tủa khiến Huyền Đức
lắm phen rùng mình, bảo phu nhân cất các
thứ đồ chơi đó đi, không phải thứ để cho
phụ nữ chơi.
Hoảng trông thị nữ đeo gươm đứng,
Cứ tưởng Đông Ngô đặt phục binh!
Phu nhân tủm tỉm cười, nói:
- Đã hơn nửa đời người chinh chiến còn sợ
gươm đao à? - Nói rồi sai vệ sỹ dọn cất hết
gươm giáo trong phòng.
Huyền Đức cùng Tôn phu nhân tâm đầu ý
hợp. Chu Du thấy kế của mình thất bại, lại
hiến kế cho Tôn Quyền hết lòng chiều
chuộng cung phụng đủ mọi thứ xa hoa để
lung lạc nhuệ khí của Huyền Đức, khiến
ông không tha thiết gì đến việc trở về Thục
hội ngộ cùng quân sư Khồng Minh, và hai
người em kết nghĩa Quan - Trương nữa.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy
chốc đông tàn xuân tới, gần đến ngày tết
nguyên đán, Triệu Vân lại y hẹn mở túi
gấm xem kế của Khổng Minh rồi vào tâu
với Huyền Đức:
- Sáng nay Quân sư có sai người sang báo
là Tào Tháo khởi 50 vạn tinh binh sang
đánh Kinh Châu, trả thù hận Xích Bích.
Nguy đến nơi rồi, chúa công phải về ngay
mới được.
Huyền Đức vào gặp Tôn phu nhân, rơm
rớm nước mắt (khóc là nghề của chàng!)
nói:
- Tôi nghĩ đến phận nương nhờ đất khách,
sống không phụng dưỡng được mẹ cha,
nay tết nhất đến nơi, cũng không thờ cúng
được tổ tiên, lấy làm hổ thẹn.
Tôn phu nhân nói:
- Phu quân đừng giấu nữa, nãy thiếp đã
nghe hết lời của Triệu Tử Long báo tin
Kinh Châu nguy cấp rồi, phu quân muốn
về nên mượn cớ đó thôi. Nay thiếp đã là
vợ của chàng, thì sống cũng là người của
họ Lưu, chết cũng là ma nhà họ Lưu.
Thôi thì phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin theo.
Nói rồi hiến kế:
- Đến hôm mồng một tết, thiếp với phu
quân xin phép mẹ ra bờ sông tế tổ, rồi cùng
lẻn về Thục, có được không?
Ngày nguyên đán, vào mùa xuân năm
Kiến An thứ 15, hai vợ chồng đến chúc tết
Ngô quốc thái, xin phép ra bờ sông tế tổ
tiên, trong lúc Tôn Quyền cùng văn võ mở
yến tiệc mừng xuân. Trước khi từ biệt,
Tôn phu nhân dâng lên mẹ một lọn tóc
mây, gói trong chiếc khăn lụa. Ngô quốc
thái đón nhận, hai giọt lệ rơi trên má. Ngô
quốc thái có biết ý con gái mình không?
Xin để độc giả suy đoán. Ôi, tấm lòng bao
la của người mẹ!
Tôn Quyền đêm ấy uống rượu say không
hề biết chuyện Huyền Đức đã lẻn đi cùng
em gái mình. Tả hữu không ai dám đánh
thức ông. Hôm sau tỉnh rượu, nghe tin ấy,
Tôn Quyền cả giận ném nghiên mực
xuống đất, vỡ tan, rồi truyền cho hai tướng
đem 500 tinh binh đuổi bắt.
Có người tâu rằng Quận chúa rất uy dũng,
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 29
lo rằng các tướng và quân sỹ không dám
ra tay. Tôn Quyền lại rút ngay thanh gươm
đang đeo ra lệnh:
- Đem thanh gươm này đuổi theo em ta và
Lưu Bị đem về đây, nếu chúng kháng cự
thì cứ chém!
Cuộc trốn chạy của Huyền Đức thật không
dễ dàng. Đằng sau quân Ngô đuổi đến gần,
đằng trước Chu Du đoán biết có ngày
Huyền Đức sẽ trốn nên đã đặt binh phục
sẵn, đánh dồn lại. Tôn phu nhân cũng
không vừa, bà xuống xe vừa chặn, vừa
quát tháo mắng các tướng, để Huyền Đức
thoát chạy đến tận bờ sông, nơi đó Triệu
Vân đã dàn quân ứng chiến. Huyền Đức
hơi vững dạ, nhìn dòng sông nước chảy
mênh mông mà đau xót nhớ đến những
ngày êm ấm
ở Đông Ngô,
ứa nước mắt.
Giờ thì không
một bóng
thuyền, chắc
chết nơi đây.
Phía sau lại
nghe tiếng vó
ngựa vang
rền, quân
Ngô đuổi đến
nơi. Huyền
Đức than:
- Chạy cả
ngày mệt mỏi, nay quân lại đuổi đến, chắc
là ta chết không có chỗ chôn thây!
Chợt Triệu Vân nhớ đến lời Khổng Minh
dặn: khi nào đến nước đường cùng thì mở
túi gấm thứ ba, liền mở ra xem rồi theo kế,
men theo bờ sông đến một dãy lau sậy rậm
rạp, đã thấy một dãy hơn chục chiếc
thuyền đậu sẵn ở đó. Ôi! Sự vui mừng nói
sao cho siết. Huyền Đức, Tôn phu nhân và
tướng sỹ lên cả thuyền. Thì ô hay, ở đâu
xuất hiện một người khăn lượt, áo the, tay
phe phẩy quạt lông, bước ra khoang lạy
chào:
- Chúc mừng chúa công. Gia Cát Lượng
tôi chờ ngài ở đây đã lâu rồi.
Hóa ra những người giả làm lái buôn trong
thuyền đều là quân Kinh Châu cả.
Trên bờ, quân Ngô đến nơi, tên bắn ra tới
tấp. Dưới sông thì nước ầm ầm nổi sóng,
nhìn ra, thì là Chu Du kéo đoàn chiến
thuyền Đông Ngô ào ào đuổi tới.
Đoàn thuyền Kinh Châu lướt đi trên sóng
sang đến bờ bên kia, bèn bỏ thuyền, lên bộ
kéo nhau chạy thoát thân. Quân của Chu
Du đuổi tới
cũng ùa lên
bộ rầm rộ
đuổi theo.
Bỗng đâu
trống đánh
vang trời, từ
trên sườn
núi, một toán
quân kéo ra,
một tướng
mặt đỏ, râu
dài dẫn đầu,
oai phong
lẫm liệt,
chính là
Quan Vân Trường. Chu Du kinh hãi, quay
ngựa bỏ chạy. Quân Thục đánh tràn, quân
Ngô thua to, Chu Du nhẩy được xuống
thuyền thì quân sỹ Kinh Châu ở trên bờ
đồng thanh hô:
Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ,
Đã mất phu nhân, lại thiệt quân!
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 30
Chu Du uất ức gầm lên một tiếng: "Kế của
ta thất bại, còn mặt mũi nào về nhìn Ngô
hầu nữa", vết thương do trận đánh lần
trước chưa lành, lại vỡ tung ra, ngã quỵ
xuống thuyền, bất tỉnh. Khổng Minh
không cho quân đuổi theo, tất cả kéo về
Kinh Châu ăn mừng và khao thưởng tướng
sỹ.
Tôn phu nhân theo chồng về Thục, vì hai
người vợ của Huyền Đức đều đã mất, nên
phu nhân lo quản việc nhà và chăm sóc A
Đẩu (Lưu Thiện), lúc đó là con trai duy
nhất của Huyền Đức và Cam phu nhân (đã
mất).
Hai năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và
Thục lại trở nên căng thẳng. Lợi dụng lúc
Lưu Huyền Đức đem quân vào Tây
Xuyên, văn võ bàn kế với Tôn Quyền sai
quân lấp lối vào Xuyên, chặn đường về
của Huyền Đức.
Ngô quốc thái nghe được giận lắm, ngăn
lại: "Ta có mỗi đứa con gái gả cho Lưu Bị,
nay bọn ngươi động binh thì tính mạng
con gái ta ra sao?". Lại mắng Tôn Quyền:
- Mày thừa kế 81 châu quận do cha anh
gây dựng chưa đủ sao, lại vì chút lợi mà
quên tình anh em?
Tôn Quyền sợ mẹ đành vâng dạ, rồi lén
dùng kế, cho người giả đem thư sang Thục
báo tin với Tôn phu nhân rằng Ngô quốc
thái bị bệnh nặng, bà muốn gặp con gái lần
cuối, và dặn dò đem cả cháu ngoại A Đẩu
về cho bà xem mặt. Thực ra là Tôn Quyền
muốn gọi Tôn phu nhân về để Ngô quốc
thái yên tâm, và muốn bắt A Đẩu làm con
tin.
Tôn phu nhân đọc thư, toan báo với quân
sư Khổng Minh để xin đi, thì người đưa
thư ngăn lại nói: "nếu quân sư bảo phải
chờ báo tin cho Lưu hoàng thúc, rồi chờ
lệnh ngài thì lỡ việc hết, nay thuyền bè đã
sẵn sàng cả rồi, phu nhân lên thuyền ngay
cho kịp".
Phu nhân nóng ruột vì mẹ bệnh nặng, do
đó, bà thu xếp cùng với 30 thị nữ rồi bồng
A Đẩu 7 tuổi, trốn theo thuyền để về Đông
Ngô. Gặp lúc Triệu Vân đi tuần về, nghe
tin rụng rời tay chân, quất ngựa như bay
đến bờ sông gọi thuyền lại, nhưng thuyền
của phu nhân cứ vùn vụt bay trên sóng.
Triệu Vân lên được chiếc thuyền nhỏ ven
bờ, cầm giáo nhảy lên bảo người lái đuổi
theo thuyền phu nhân, lúc đó đang bắn tên
như pháo sang thuyền Triệu Vân. Vân lấy
giáo gạt ra, nhảy vọt sang thuyền lớn.
Quân Ngô khiếp vía, ngã ùm xuống sông
cả đám. Vào đến khoang thuyền, thấy Tôn
phu nhân đang ôm A Đẩu, Triệu Vân thưa:
- Chủ mẫu đi đâu sao không báo cho quân
sư biết? Lại đem cả tiểu chủ đi?
Tôn phu nhân nói:
- Mẹ ta ốm nặng, không kịp báo cho quân
sư. Ta phải đem A Đẩu đi vì để lại Kinh
Châu không ai chăm sóc.
Triệu Vân nói:
- Chủ mẫu muốn đi thì đi, nhưng phải để
tiểu chủ lại.
Nói rồi, giằng lấy A Đẩu trong tay Tôn
phu nhân, ôm ra đứng đầu thuyền. Phu
nhân quát đám thị tì có võ nghệ xông vào
đánh chém Triệu Vân. Vân một tay ôm A
Đẩu, tay kia vung đao chém loạn xạ cả lên,
cả đám "nữ tặc" ngã chúi vào nhau. Triệu
Vân có một mình giữa giòng, không sao
đưa A Đẩu vào bờ được. Bỗng đâu một
đoàn độ mươi chiếc thuyền vùn vụt bay
tới, cờ quạt rợp trời, trống chiêng vang
dội. Triệu Vân kinh hồn hoảng vía, nhìn ra
thì thấy một tướng cầm xà mâu, mắt tròn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 31
to thét lớn:
- Tẩu tẩu, phải để cháu ở lại đây.
Ouf. Hết hồn! Thì ra Trương Phi, lúc đó
đang đi tuần tiễu, nghe báo tin Tôn phu
nhân mang A Đẩu đi, vội vàng đem đoàn
thuyền chạy theo chặn lại. Trương Phi cứu
được Triệu Vân và A Đẩu, cùng mừng rỡ
nhảy qua thuyền mình quay về, vừa lúc
thuyền lớn của Khổng Minh tới tiếp cứu.
Thấy A Đẩu được cứu, mọi người hớn hở
bơi thuyền trở về doanh trại.
Sau khi Tôn phu nhân về Đông Ngô, từ
đấy tình nghĩa phu thê đứt đoạn, không ai
nghe nói gì về bà nữa.
Năm 221, Lưu Bị và Khổng Minh ở Thục
nghe đồn rằng Hán Hiến Đế đã bị
Tào Phi giết hại (tin không đúng, xin
xem hồi cuối sẽ rõ!), bèn phát tang.
Quần thần nhiều lần khuyên Lưu Bị
đăng cơ, và cuối cùng ông đã chấp
thuận lên ngôi Hoàng đế để nối tiếp
nhà Hán. Từ đó nhà Thục Hán bắt
đầu.
Tiếp đến là cái chết của hai người
em kết nghĩa Quan Vũ và Trương
Phi đã khiến Lưu Bị dồn sự căm tức
lên Đông Ngô, và quyết tâm kéo đại
binh báo thù, bất chấp lời khuyên
can của Khổng Minh, Triệu Vân và các
tướng. Lòng nôn nóng trả thù đã khiến
Lưu Bị mù quáng và đưa ông đến việc liên
tiếp thất trận. Cuối cùng, trong trận Di
Lăng - Hào Đình, ông lại phạm một lỗi
lầm lớn về việc dựng trại san sát nhau liên
tiếp 700 dặm, phạm vào một tối kỵ
của binh gia. Quả nhiên, quân Ngô
thừa lúc trời nổi gió đã dùng hỏa
công tấn công vào liên trại của
Thục, Lưu Bị trở tay không kịp,
quân sĩ bị giết mấy vạn người, phần
còn lại tan vỡ bỏ chạy. Cuối cùng
Lưu Bị phải bỏ cả mũ giáp chạy về
thành Bạch Đế.
Bên Đông Ngô, mấy hôm trước,
Tôn phu nhân nằm mơ thấy Lưu Bị
đứng trước mặt khóc mà không nói
gì. Tâm thần hoảng loạn, bà đứng dậy ra
ngoài đi quanh thì nghe ngoài hành lang
bán tán về việc quân Thục bị thua trận, và
loan "tin vịt" là Lưu hoàng thúc đã chết
trong đám loạn quân rồi. Phu nhân nhớ lại
giấc mộng, choáng váng ngất đi. Ngô quốc
thái an ủi, rồi cho gọi Tôn Quyền đến
mắng cho một trận, Tôn Quyền chỉ lặng
thinh.
Hôm sau, Tôn phu nhân cho bày hương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 32
hoa sẵn, rồi mặc áo tang ra bờ sông khấn
vái. Lạy xong bà gọi "Hoàng thúc, thiếp
theo chàng đây" rồi lao mình xuống giòng
Trường Giang cuồn cuộn sóng. Mọi người
kinh hãi, tìm cách cứu, một mặt cấp báo
với Tôn Quyền nhưng khi Tôn Quyền đến
nơi thì chỉ thấy sóng nước nhấp nhô dưới
trời thanh đãng. Người đời sau lập đền thờ
Tôn phu nhân trên bến sông, gọi là đền
Khiêu Cơ.
Cụ Phan Kế Bính có thơ khen rằng:
Tiên chủ thua quân tới Bạch Thành,
Phu nhân nghe nạn vội quyên sinh.
Bến sông nay vẫn còn bia tạc,
Chói lọi nghìn thu tiếng gái trinh.
------------------
N
hà thơ Tôn Thọ Tường đã dựa vào
điển tích này mà viết bài "Tôn phu
nhân qui Thục". Ông tự ví mình như Tôn
phu nhân, lấy chồng thì phải theo chồng,
dù vẫn nặng lòng với cố hương. Ông ra
làm việc với người Pháp, không có nghĩa
là không nặng lòng với quê cha đất tổ!
Ông tận tụy với chức vụ, được người Pháp
nể trọng, sau thăng đến chức Đốc phủ sứ.
Trong một chuyến công du ra Bắc cùng
với viên Lãnh sự Pháp, ông bị bệnh và
chết, lúc chết vẫn nghèo như trước, rõ ràng
việc ông cộng tác với người Pháp không
hẳn là để cầu vinh.
Ông luôn bày tỏ niềm u uất đối với những
lời khích bác, chê bai của phe bài chống
Pháp, nên gửi tâm sự vào thơ để bày tỏ nỗi
lòng, biện bạch cho việc "qui Pháp" của
ông. Bài Tôn phu nhân qui Thục; hay bài
Từ Thứ qui Tào là những thí dụ điển hình.
Tôn phu nhân một lòng thờ chồng mà theo
về Thục, Từ Thứ vì mẹ mà phải bỏ Thục
theo Tào, ra đi mà ruột đứt lòng đau!
Bài Tôn phu nhân qui Thục chỉ vỏn vẹn 8
câu, Tôn Thọ Tường ca ngợi Tôn phu nhân
"Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông",
cùng lời nhắn nhủ của Tôn phu nhân gửi
đến đô đốc Chu Du ở 4 câu cuối:
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông.
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
Bài thơ đã tạo nên một trận bút chiến với
nhiều bài họa lại, có ý châm chích ông,
điển hình là bài của cụ Phan Văn Trị, cũng
tả cảnh lúc Tôn phu nhân bịn rịn rời đất
Đông Ngô như: "mặt ngả trời chiều biệt
cõi Đông", và kết thúc với 4 câu, mượn lời
nhắn nhủ của Tôn phu nhân gửi đến anh
trai Tôn Quyền, chủ ý là để "mắng" Tôn
Thọ Tường:
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
Ý nhắn nhủ với Tôn Thọ Tường rằng: Tôn
phu nhân là gái, phải theo chồng là lẽ
thường rồi (hai vai tơ tóc…), chưa kể bà
còn là gạch nối để giữ vững tình hòa hảo
giữa Ngô-Thục (gánh cương thường nặng
núi sông). Chứ còn Tôn Thọ Tường có
phải là gái đâu, mà giặc Pháp có phải là
chồng của ông đâu mà nói là ông "phải"
theo! Ông là trai thì phải thờ chúa chứ!
Chuyện bút chiến, xin không phê phán,
việc đó đã có lịch sử phê phán rồi.
Cũng trong tâm trạng biện bạch đó, Tôn
Thọ Tường còn có bài thơ Từ Thứ qui Tào.
Từ Thứ là một mưu sĩ của Lưu Bị, rất được
trọng dụng và đã nhiều lần bày mưu giúp
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 33
Lưu Bị thắng Tào Tháo. Tháo mến tài
muốn chiêu dụ ông nhưng không biết
dùng cách gì. Quân sư quạt mo Trình Dục
bày kế "Từ Thứ chí hiếu, chỉ còn một mẹ
già không ai chăm sóc. Thừa tướng nên
lừa mẹ hắn về
Hứa Xương, rồi
bảo bà viết thư
gọi con về hàng,
chắc Từ Thứ
nghe theo". Tào
Tháo y kế, bắt
được mẹ Từ
Thứ, mang về
đối đãi rất tử tế,
rồi bảo bà viết
thư gọi con về
hàng. Từ mẫu
nổi giận, ném
nghiên mực vào mặt Tào Tháo. Tháo toan
giết bà, nhưng Trình Dục can và đem Từ
mẫu nuôi nấng ở riêng một nhà, ân cần
phụng dưỡng, thường xuyên đem đồ biếu
kèm danh thiếp. Từ mẫu cảm động cũng
gửi thiếp cám ơn. Nhờ đó, Trình Dục bắt
chước được chữ viết của bà, liền giả chữ
bà, viết thư sai người đem đến cho Từ
Thứ, nói nếu Từ Thứ về hàng Tào Tháo thì
may ra mạng của bà mới được cứu thoát.
Từ Thứ đọc thư thấy đúng chữ của mẹ,
không cầm được nước mắt, vào yết kiến
Huyền Đức, kể lể sự tình. Huyền Đức đau
lòng khóc rống lên, đành lòng để Từ Thứ
ra đi.
Tôn Càn khuyên Huyền Đức giữ Từ Thứ
lại đừng cho đi, Tào Tháo không dụ hàng
được Thứ, hẳn sẽ mang mẹ già ra giết, Từ
Thứ ắt sẽ mang bụng thù mà cố sức giúp
Thục đánh Tào. Huyền Đức không nghe:
- Ta thà chết chứ không làm những việc
bất nhân bất nghĩa như thế.
Rồi đành lòng tiễn Từ Thứ đi hết chặng
đường này đến chặng đường khác, hai
người nước mắt như mưa! Đến bên bìa
rừng, Huyền Đức dừng cương ngựa, trông
theo Từ Thứ, rồi khóc mà nói:
- Từ Nguyên
Trực đi rồi, ta
phải làm sao?
Rồi gạt nước
mắt chỉ roi
vào rừng nói:
- Ta muốn
chặt hết cây
cối nơi này!
Quân sĩ hỏi
duyên cớ,
Huyền Đức
nói:
- Rừng cây
này che khuất Nguyên Trực của ta.
Từ Thứ đến Hứa Xương vào yết kiến Tào
Tháo rồi vội vã đến gặp mẹ, quỳ lạy khóc
lóc. Từ mẫu hoảng hốt hỏi nguyên do. Từ
Thứ nói nhận được thư mẹ bị khốn ở chỗ
Tào Tháo nên vội vã về. Bà giận quá mắng
rằng:
- Mày là đồ nhơ nhuốc. Mấy năm trôi giạt,
tao tưởng mày học hành nên thân, sao còn
ngu thế hở con? Mày không biết Tào Tháo
là tên nghịch tặc dối vua lừa chúa à, mà
còn còn vác mặt bỏ chỗ sáng về chỗ tối?
Tao còn mặt mũi nào trông thấy thiên hạ
nữa. Mày đã đọc sách mà không hiểu rằng
trung hiếu không thể vẹn toàn à?
Từ Thứ cứ dập đầu xuống đất khóc, không
dám ngẩng mặt lên, lúc sau người nhà ra
báo rằng Từ mẫu đã treo cổ lên sà nhà rồi.
Từ Thứ chạy vào thì mẹ đã tắt thở. Đời sau
có thơ khen rằng: Hiền thay Từ mẫu!
Tiếng thơm muôn thuở!
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 34
Từ đó, Từ Thứ tuy thân gửi nơi Tào mà
hồn lúc nào cũng vấn vương nơi đất Thục.
Mặc cho Tào Tháo trọng dụng đến đâu,
ông cũng nguyện không dâng một kế nào.
Tôn Thọ Tường cũng dùng điển tích này
nói lên nỗi lòng của mình khi phải uốn
mình về với giặc Pháp! Khác gì Từ Thứ
phải nén lòng ở với Tào!
-----------------
N
hững tấm gương trung liệt của nhi nữ
như Từ Mẫu không thiếu trong
truyện Tam Quốc. Những người đàn bà
son sắt thờ chồng cũng không phải chỉ có
Tôn phu nhân. Tào Tiết hoàng hậu cũng là
một tấm gương sáng, hết dạ thờ chồng là
vua Hán Hiến đế Lưu Hiệp, vị vua cuối
cùng của triều đại nhà Hán.
Bà là một chứng tích của việc "cây đắng
sinh trái ngọt". Là con gái của Tào Tháo,
bà và người chị cùng người em gái, được
cha là Tào Tháo đưa vào cung làm phi tần
cho vua Hiến đế, với mục đích tạo thế lực
cho mình. Đó là năm 213 sau công
nguyên. Cùng năm đó, vợ vua Hiến Đế là
Phục hoàng hậu bị Tào Tháo giết hại, vì
hoàng hậu âm thầm liên lạc với cha là
Phục Hoàng, tìm cách diệt Tào, bị Tào
Tháo phát giác .
Phục hoàng hậu chết rồi, Tào Tháo đề nghị
vua Hiến Đế (trên thực tế là ép buộc) lập
con gái mình là Tào Tiết lên làm hoàng
hậu. Tào hoàng hậu, cũng như người chị
và người em, dù vào cung với tư cách Quý
nhân, nhưng không được Hiến Đế sủng ái,
lý do dễ hiểu vì họ là con của Tào Tháo, là
người uy hiếp vua, thậm chí là nắm Thiên
tử trong tay để sai khiến chư hầu. Do đó,
ba chị em bà đều có cuộc sống tẻ lạnh
trong cung. Tuy vậy, Tào hoàng hậu luôn
một mực trung thành với Hiến đế và Hán
triều, nhiều lần bất đồng âm mưu soán
nghịch của cha và anh.
Năm 220, Tào Tháo mất, con là Tào Phi
lên thay ngôi Ngụy Vương của Tào Tháo,
tháng 10 năm đó Tào Phi soán ngôi nhà
Hán, ép Hiến Đế thoái vị.
Hán Hiến Đế về cung nói lại cho Tào Tiết
hoàng hậu nghe, bà cả giận quát ầm ĩ:
- Các ngươi đều là bọn loạn tặc! Cha ta
công cán lẫy lừng, uy chấn thiên hạ, mà
còn không dám soán vị Thiên tử. Nay anh
ta tự vị nhiều lần, còn muốn soán Hán,
Hoàng Thiên tất không phù hộ!
Tào Phi cho người vào cung hỏi ngọc tỷ
truyền quốc, lúc đó do bà cất giữ. Tào
hoàng hậu nhất định không đưa, bà nói:
"ngọc tỷ chỉ có vua được quyền dùng, anh
ta là gì mà dám đòi lấy?". Sau vì bị ép bức,
bà cầm ngọc tỷ ném xuống lầu, khóc mắng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 35
Tào Phi rằng: "Trời không phù hộ cho nhà
ngươi đâu". Hành động "ném tỷ trách
huynh" của bà đã được sử sách ghi chép.
Hiến Đế từ đó cảm lòng trung nghĩa của
hoàng hậu, đã hết lòng yêu thương bà. Tào
Tiết làm hoàng hậu được cả thảy 7 năm.
Tào Phi lên
ngôi, lập ra
triều Tào
Ngụy, đày vua
Hiến đế ra Sơn
Dương, giáng
làm Sơn
Dương công,
hưởng lộc vạn
hộ. Tào Tiết
hoàng hậu là
người vợ duy
nhất được đi
theo vua, trở
thành Sơn
Dương công phu nhân. Triều đại lừng
danh nhà Đông Hán chính thức chấm dứt
từ đó sau hơn 400 năm trị vì.
Ở Sơn Dương, phu nhân khuyên chồng bỏ
y phục xa hoa, ăn mặc đơn sơ, hành y cứu
giúp dân chúng nhờ những bài thuốc quí
học được trong cung; nên được người Sơn
Dương ca tụng là Long Phụng y gia. Đến
nay tại Bách Gia Nham Cảnh khu, có bia
đá khắc hình vẽ Hiến Đế hành y đồ. Dân
chúng mang ơn, bốn mùa dâng tặng sản
vật, nhờ thế mà cuộc sống của hai vợ
chồng khá thảnh thơi.
Năm 234, Sơn Dương công (Hiến đế) qua
đời lúc 53 tuổi, làm Sơn Dương công được
14 năm. Ông được Ngụy Minh đế (là con
Tào Phi, nối ngôi cha) cho an táng theo
nghi lễ Thiên tử, đặt thụy hiệu là Hiếu
Hiến hoàng đế. Đến năm 260, Sơn Dương
công phu nhân (Tào Tiết hoàng hậu) cũng
qua đời, được hợp táng cùng chồng theo
nghi lễ an táng của Hán triều hoàng hậu,
được đặt thụy hiệu là Hiến Mục hoàng
hậu.
Coi như một happy ending cho cuộc đời
của vị vua và
hoàng hậu cuối
cùng của Hán
triều, cũng như
một kết cục tốt
đẹp cho vị
hoàng hậu bị
thất sủng, cuối
cùng đã được
cùng chồng
chung hưởng
hạnh phúc đến
chết nhờ tấm
lòng trung
hạnh. Thật là
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân. Theo
các sử gia, trường hợp bị soán ngôi và
được sống trọn vẹn yên ổn đến chết như
Hán Hiến đế không có nhiều. Vì thế cuộc
nhường ngôi Hán-Ngụy được xem là hiếm
có. Người đàn bà trung liệt đến chết cũng
lại được về bên cạnh chồng đến thiên thu.
……………..
C
ũng là trung trinh tiết liệt, nhưng Tôn
phu nhân lại không được một kết cục
tốt đẹp như thế. Từ khi bà về Giang Đông
cho đến khi chết cũng không được gặp lại
chồng, cũng không thấy kể là Lưu hoàng
thúc có nghĩ đến bà không? Hay hận bà đã
bỏ đi không lời từ biệt, lại còn toan đem
cả A Đẩu đi cùng?
Ngày nay, tại Vũ Hầu Tự, tỉnh Tứ Xuyên,
là nơi thờ Lưu Bị và các tướng Thục
Hán thời xưa, sau lối đi quanh co bao bọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 36
bởi bức tường dài, cũng chỉ thấy tấm bia
"Hán Chiêu Liệt hoàng đế chi mộ", được
dựng vào năm Càn Long thứ 53 (năm
1788), là nơi hợp táng của Lưu Bị cùng hai
người vợ là Cam phu nhân (mẹ A Đẩu), và
Ngô phu nhân (Lưu Bị cưới sau khi Tôn
phu nhân về Giang Đông) mà thôi.
Thương thay cho Tôn phu nhân, vì tham
vọng chính trị của người anh trai, khiến
tình duyên lở dở, sinh ly tử biệt. Đền
Khiêu Cơ ngàn năm sau biết có còn hương
khói? Hay hồn xác ngàn đời ngậm ngùi
theo sóng nước Trường Giang?
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng?
Hải Phong
Lối vào Vũ Hầu Tự
Bia thờ Hán Chiêu Liệt Hoàng đế
Thành Kinh Châu
được nhắc đến trong bài
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 37
Như dòng sông ôm hoài con nước lớn
Yêu thương anh, em yêu mãi một người
Nước và sông sẽ còn mãi nhau thôi
Như em sẽ còn yêu anh mãi mãi…
Dù xa cách, dù ngàn trùng xa ngái
Anh của em em biết: vẫn yêu em
Vẫn nhớ em trong mỗi sáng, mỗi đêm…
Bằng tất cả với trái tim nồng nhiệt
Em hiểu lắm, anh vẫn yêu tha thiết
Muốn ôm em, muốn ấp mãi vào lòng
Em như con lạch nhỏ chảy vào sông
Em cần lắm một dòng sông thương mến
Anh cuả em, anh là sông là … biển
Biển của em: biển phẳng lặng, êm đềm
Em yêu anh, anh: sông biển cuả em
Sông và biển ôm hoài con nước lớn…
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 38
Em nhớ anh nhiều anh biết không
Nhớ anh như nước nhớ dòng sông
Nhớ như con nước chờ ra biển
Nhớ lắm, làm sao dạy được lòng?
Đã biết bao lần em nhớ anh
Nhìn trời chỉ thấy bóng trời xanh
Anh đâu, em biết tìm đâu nhỉ?
Chỉ thấy tháng ngày bay mất nhanh
Đã biết bao lần nước mắt em
Chảy vào tim lẻ lúc về đêm
Không mong, không đợi gì thêm nữa
Để tránh cho lòng đau đớn thêm
Em cố quên đi một mối tình
Tình yêu tha thiết của ngày xanh
Thời gian ơi, hãy là thang thuốc
Hãy giúp em quên một bóng hình.
Sương Mai
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 39
Tôi còn một trái tim vơi
Tình yêu đã cạn, mạch đời đã khô
Lòng tôi đầy những nghi ngờ
Nghi trăng thôi sáng, nghi tơ thôi mềm
Lòng tôi dừng lại bên thềm
Tay không gõ cửa màn đêm ngậm ngùi
Tôi ngờ đời chẳng còn vui
Tình ơi, còn có giữa đời này không
Tôi ngờ tôi kẻ bạc lòng
Buồn. Tôi đóng cửa, ngoài song gió
lùa
Còn đâu một trái tim xưa
Tràn đầy yêu dấu bốn mùa đều xuân
Tim tôi đầy lắm, có lần…
Sao bây giờ bỗng… ngại ngần tiếng
yêu?
Sương Mai
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 40
Sau khi xem xong chương trình ca nhạc
Asia với chủ đề "Lá thư từ chiến
trường" đã gợi lại cho tôi biết bao là kỷ
niệm đầm ấm của ngày xưa, ngày còn cắp
sách đến trường của tuổi đôi chín mơ
mộng, và rồi những nhớ nhung da diết khi
anh đã chọn binh nghiệp cho tương
lai. Những lá thư cũ của anh đã được viết
từ trường huấn luyện xa xôi, kế tiếp là từ
chiến trường hiện rõ trong trí của tôi.
Năm đầu của cấp ba, khi tựu trường tôi ghi
danh học lớp đệ tam B (tức là lớp 10 ban
B). Trong lớp gồm 50 học sinh nam nữ
nhưng chỉ có 18 nữ sinh, còn bao nhiêu là
nam sinh. Vì là con gái chúng tôi được ưu
tiên ngồi ở dãy bàn đầu ngoài cửa bước
vào, sau lưng là dãy bàn dành cho nam
sinh, thỉnh thoảng tôi nghe lời xì xào từ
những nam sinh ngồi ở bàn phía sau: Gái
mà đi ban B, học toán tình cảm khô như
que củi, tối ngày đếm số thì còn gì là con
gái chứ. Con gái phải học ban C, văn
chương mới có tình cảm ướt át hay là ban
A cho nhẹ nhàng. Nghe xong những câu
nói lén của những nam sinh ngồi phía sau
tôi thầm nghĩ. "Dễ bộ đi ban B thì tình cảm
khô khan à? Ai nói?".
Vừa thi xong đệ nhị cá nguyệt cũng là
ngày sắp bãi trường, tất cả thầy cô và học
sinh có chung một nỗi buồn vì sắp phải xa
nhau. Thầy chủ nhiệm Đặng Trường
Phước tổ chức cho cả lớp đi cắm trại trước
khi nghỉ học. Đối với tất cả học sinh khi
nghe thầy báo cho biết cắm trại hè, chúng
tôi đồng ý không thể bỏ qua, mọi người
họp lại phân chia công việc. Bên nữ thì
mỗi đứa mang theo một món ăn, còn phần
bên nam thì nước uống, lều, củi, bếp…
Sau khi đến nơi, dựng lều xong chúng tôi
chia nhau công việc, người thì đi nướng
thịt, người lặt rau và nướng bánh mì. Mọi
người vừa ăn hát, đọc thơ và chuyền nhau
viết lưu bút... Trưa hôm đó sau khi ăn
uống xong, chúng tôi rủ nhau đua xe đạp,
chuyền banh, đánh vũ cầu, đi câu cá cạnh
bờ hồ. Tôi còn đang chăm chú nhìn theo
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 41
cái phao, thấy nó đang nhúc nhích, tôi vội
giựt và reo lên:
- A, có cá rồi, cá rô.
Không biết từ lúc nào anh trưởng lớp đã
đứng sau lưng tôi vội lên tiếng:
- Mai giỏi quá, tôi câu mãi chẳng được
con nào cả.
Anh gỡ cá và móc mồi khác cho tôi. Một
lúc sau anh đưa cho tôi cuốn tập và nói:
- Mai cất đi về nhà rồi hãy mở ra xem.
Tôi rất ngạc nhiên và chần chừ. Anh nhìn
mỉm cười khẽ bảo
- Cất vào túi xách đi, mau lên coi chừng
tụi nó thấy.
Tôi nhìn sang chỗ khác rồi lặng lẽ cất vào
túi xách. Chiều, khi về đến nhà vội vàng
vào phòng mở ra xem, trong đó có những
cánh phượng đã khô ép vào trang sách và
kèm theo một lá thư bằng giấy pelure màu
xanh nhạt. Tôi thầm cười:
Ai bảo là ban B tình cảm khô khan như
que củi? Cũng lãng mạn lắm chứ. Sau khi
xem thư xong tôi cảm thấy bối rối suy
nghĩ. Ngày mai khi đi học chắc gặp anh tôi
sẽ ngại lắm không tự nhiên như lúc trước.
Sáng hôm sau khi đến trường gặp anh tôi
run lắm và nhìn chỗ khác anh gọi nhỏ:
- Mai. Đọc thư chưa? Tại sao lại tránh né
tôi?
Tôi cúi xuống không dám nhìn anh, nói lí
nhí:
- Mai đọc rồi và đọc nhiều lần
lắm.
Thế là từ đó mỗi ngày đi học gặp
nhau, nhưng tôi thấy không được
tự nhiên như lúc trước, rồi tình
yêu của chúng tôi bắt đầu nẩy
nở, có những cuộc hẹn hò đi xem
phim, dạo bờ hồ Tĩnh Lặng.
Những giờ nghỉ trong ngày
chúng tôi ngồi ngoài công viên
cùng bàn bạc những bài toán khó
hay một vài câu thơ.
Hè đến, chúng tôi phải tạm chia
tay ba tháng.Và những nỗi buồn không
tên, những niềm nhớ da diết của người con
gái mới biết yêu lần đầu luôn mong thời
gian qua thật nhanh để gặp lại người mà
mình nhớ nhớ, thương thương.
Ngày tựu trường năm sau, chúng tôi cũng
học chung lớp 11. Anh luôn là người giỏi
toán được thầy cô khen. Những ngày nghỉ
chúng tôi hẹn với nhau để làm toán hoặc
tham khảo mọi bài vở. Rồi từ đó chúng tôi
càng quyến luyến, đậm đà hơn. Thời gian
dần trôi tình yêu của cả hai cũng lớn dần
theo năm tháng.
Cuối năm lớp đệ nhất (lớp 12) tôi rớt, anh
đậu, biết tôi buồn nên anh hết lời an ủi:
- Năm nay không đậu thì năm tới đậu có
gì đâu mà buồn. Vì học tài thi mạng mà
Mai có dự định học lại một năm nữa hay
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 42
không?
Tôi gật đầu rơm rớm nước mắt:
- Mẹ bắt buộc tôi phải học lại một năm
nữa, mẹ nói phải có tú tài toàn phần rồi sau
đó học ngành nghề gì thì cũng xin được
việc làm.
Tôi chợt nhìn anh và hỏi:
- Còn anh đậu rồi sao không tiếp đại học
mà đi lính. Anh nheo mắt nhìn tôi cười:
- Thời chiến tranh, trước sau gì cũng phải
đi lính, không đi hiện dịch cũng phải lọt
vào trừ bị dù muốn dù không cũng phải thi
hành nghĩa vụ,
thay vì mặc áo
học sinh ôm tập
đến trường, bây
giờ mặc áo lính
ôm súng ra chiến
trường, trường
hợp nào cũng
giống nhau.
Sau khi thi đỗ tú
tài hai, anh đã
ghi tên vào
trường võ bị Đà
Lạt, chàng trai
trẻ ngày nào đã
chọn binh nghiệp. Anh để lại sau lưng
một mối tình đang độ nồng nàn. Ngày chia
tay anh, tôi khóc thật nhiều, thật nhiều.
Anh ôm tôi và nói:
- Nín đi em, hứa với anh phải biết chăm
sóc mình để anh yên lòng đi giữ quê
hương, mong quê hương sớm thanh bình
để thấy được nụ cười trên môi mọi người,
trong đó có em.
Sau gần nửa tháng mỏi mòn chờ đợi, cuối
cùng tôi cũng nhận được thư anh. Khỏi
nói, tôi mừng đến dường nào hai tay run
run mở thư đọc:
"Đà Lạt sương mù,
Mai,
Anh đặt chân đến Đà Lạt thành phố sương
mù, thời tiết lúc nào cũng lành lạnh, đồi
núi mênh mông bạt ngàn, không giống như
Sài Gòn. Những buổi chiều cuối tuần anh
đi lang thang cạnh bờ hồ Than Thở mà ao
ước phải chi giờ này có Mai bên cạnh
chắc vui lắm. Giờ này Mai đang làm gì?
Đang đứng dưới những bóng phượng
trong sân trường để chia tay tạm biệt với
bạn bè trong
niên học cuối
phải không?
Năm nay
phượng trổ
hoa nhiều
không? Mai
có nhặt
những cánh
hoa màu đỏ
ép vào trang
sách để nhớ
anh không?
Mỗi ngày học
tập trong
quân trường rất mệt mỏi nhưng đêm về
anh thấy thời gian vẫn còn chậm. Hay là
tại anh nhớ Mai nhiều và mơ về Sài Gòn
nên thấy thời gian đi chậm lại. Đầu óc anh
lúc nào cũng đầy hình ảnh của Mai anh
mong sớm được gặp lại Mai.
TB: Đồi núi Đà Lạt có rất nhiều Mai mọc
trong rừng, nhớ Mai nên anh tạm đặt tên
cho Mai là "Mai rừng" nhé.
Nhớ em nhiều.
Hôn em"
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 43
Tôi xếp lá thư lại, đầu óc lâng lâng như
vừa say rượu. Tôi nhớ anh thật nhiều, thật
nhiều…
Thời gian ba năm ở trường võ bị Đà Lạt
chúng tôi thường xuyên thư đi thư lại,
thấm thoát đã đến ngày ra trường, anh
chọn về binh chủng Biệt kích 81 dù.
Ngày ra trường của anh, rất tiếc tôi không
đến để chia vui cùng anh được. Tôi nóng
lòng chờ đợi thư anh.Tôi đếm từng ngày,
chờ đợi mỏi mòn cuối cùng cũng nhận
được thư đầu tiên sau hơn nửa tháng. Nhìn
con dấu ngoài bì thư là vùng cao nguyên
Pleiku. Vội vàng mở ra đọc:
"Pleiku sương mù,
Mai rừng của anh,
Anh đến Pleiku gần nửa đêm, phố xá như
đang say ngủ. Đêm nay thời tiết trở mùa,
cái lạnh của Pleiku làm lòng anh cảm thấy
cô đơn. Phố núi buồn càng làm anh nhớ
em vô cùng. Đường xá vắng xe cộ, anh
nằm co ro với cây súng bên mình phải chi
nó là em. Phố núi vào ban đêm sương mù
dầy đặc. Trên con đường vắng vẻ, thỉnh
thoảng có một vài người bán hàng rong co
ro với đôi gánh trên vai lê thê trở về nhà
trong muộn màng. Những cô gái miền cao
nguyên nhờ khí hậu mát mẻ nên có nước
da hồng hào. Nơi này họ trồng nhiều cà
phê và trà, những vườn cây ăn trái, trên
cao nhìn xuống có những mảnh ruộng
hình ô vuông giống như con cờ trông rất
đẹp. Anh thích ngồi một mình với ly cà phê
nóng, uống thật chậm để thưởng thức vị
đắng vẫn giữ trong cổ họng.
Khi nào anh về phép sẽ kể em nghe. Dạo
này em khỏe không? Công việc làm có cực
lắm không em? Đêm nay nằm nghe tiếng
súng đì đùng nổ từ xa xa vọng về, anh cảm
thấy cô đơn và nhớ em vô cùng, không biết
giờ này em có ngủ được không? Có nhớ
anh không?
Thôi khuya rồi anh đi ngủ đây. Chúc em
được nhiều giấc mơ đẹp, nhưng nhớ trong
đó có anh nhé
Mong thư em.
Hôn Mai rừng của anh"
Thư của lính rất chân thật, không hoa mỹ,
không chải chuốt, anh viết rất ngắn gọn,
thật lòng, anh thường nhắc những địa danh
cho tôi nghe, anh viết với tâm sự và nỗi
bâng khuâng lo lắng của một quân nhân
ngoài chiến trường, thường đối đầu với tử
sinh.
Hôm nay tôi lại nhận được thư anh. Tôi
coi đó là món ăn tinh thần rất cần thiết cho
tôi thư viết từ Bình Long:
"Mai rừng của anh,
Anh dừng quân tại một doanh trại, rừng
núi mênh mông giữa hai tỉnh Bình Long và
Phước Long. Rừng núi toàn tre lồ ồ chen
trùng trùng điệp điệp khu rừng này cũng
có những người lính đã trút hơi thở cuối
cùng ở đây. Chiến tranh là đau thương là
mất mát, nhưng đã là quân nhân thì Tổ
quốc - Danh dự - Trách nhiệm, phải khắc
ghi nằm lòng.
Em, anh đang viết thư cho em thì vẫn nghe
tiếng súng nổ đì đùng từ xa vọng chợt nghĩ
miên man: Ở xa xôi đó có bao nhiêu người
lại ra đi cho cả hai bên, bạn và thù. Có
bao vành khăn tang quấn vội trên đầu
người vợ trẻ vẫn còn đọng nét ái ân. Có
bao nhiêu đứa trẻ mất cha ngơ ngác nhìn
mẹ chúng sầu thảm theo sau quan tài, rồi
ông bà đã khô nước mắt khóc con, xót xa
thương dâu trẻ, cháu thơ ngây...
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 44
Em ơi! Lính thời loạn mà, không thể hẹn
trước gì cả. Chỉ cầu nguyện bình an từng
giờ nói chuyện mà quên hỏi em có khỏe
không? Có nhớ anh không? Riêng anh nhớ
em nhiều lắm.
Em giữ sức khỏe nhé. Chúc em vui
Hôn Mai rừng của anh"
.............................
"Vùng hoả tuyến
Mai em,
Anh vừa nhận được
thư em, nhưng vì
hành quân liên tục,
nên trả lời hơi muộn.
Hôm nay anh viết thật
nhiều, nhưng diễn tả
không hết những nỗi
nhớ nhung, hy vọng
sẽ có một ngày phép
về gặp lại em sẽ kể
cho em nghe những
chiến công oanh liệt
của đơn vị anh. Em
ơi, viết sao cho hết
nỗi nhớ người vợ sắp
cưới, người vợ trẻ khi
mà ngày cưới gần kề
bên. Ở đây hoa rừng
rất nhiều đếm không
hết tên những loài
hoa, nhưng không có Mai rừng làm thơm
ngát lòng anh... Bây giờ anh tạm nhờ khu
bưu chính mang thư này về an ủi em. Đơn
vị của anh đang đóng quân ở vùng biên
giới Miên Việt
Về đêm những làn gió núi thổi đến lạnh
người, chung quanh chỉ một màu xanh của
lá. Cấp chỉ huy vừa ký cho anh tờ đơn xin
cưới và 14 ngày phép thường niên. Cầm tờ
đơn trong tay lòng nao nao khó tả.
Mai rừng ráng chờ anh một tuần nữa
nghe, em chuẩn bị cho anh một bộ veste,
anh không thích mặc quân phục. À em còn
nhớ Vĩnh không? Nó là đàn em của
anh, kỳ này nó cũng về phép chung với
anh và Vĩnh sẽ làm rể phụ, em chọn một
cô dâu phụ cho xứng đôi với Vĩnh dùm
anh. Chúng ta có hai tuần trăng mật thật
hạnh phúc bên nhau,
nghĩ tới giây phút em
và anh được mọi
người chúc phúc anh
hồi hộp quá. Thôi anh
không nói nữa, có vẻ
như anh đang chuếnh
choáng vì men hạnh
phúc.
Chúc em mạnh khỏe.
Hôn Mai rừng của
anh"
Đọc những lá thư
được gởi từ các địa
danh khác nhau, lúc
hành quân chỗ này,
khi dời đi chỗ khác.
Đôi lúc được nghỉ
thời gian ngắn, anh
vẫn tranh thủ viết thư
cho tôi. Tất cả đều
thấm đẫm tình yêu
nồng ấm gởi về cho người yêu ở hậu
phương. Nhờ vào tình yêu mà anh quên
mọi khó khăn nhọc nhằn và cả nguy hiểm
khi kề cận tử sinh.
Hôm nay tôi vừa nhận được thư anh khi
mở bao thư ra, trong thư không phải tờ
giấy pelure màu xanh mà là vỏ của bao
thuốc lá Bastos xanh. Thương quá là
thương cho người lính Việt Nam Cộng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 45
Hòa tuy thiếu phương tiện nhưng tình vẫn
nồng nàn cháy bỏng anh còn viết thêm
mấy câu thơ để làm quà.
"Vùng hoả tuyến,
Mai rừng yêu của anh,
Hôm qua nằm mơ thấy mình được phép về
thăm em. Em đón anh bằng ánh mắt ngấn
nước và nụ hôn nồng nàn. Giây phút đó
không ngừng khuấy động tâm hồn anh,
anh mong thời gian qua nhanh để anh
được gặp em cho thỏa lòng nhung nhớ.
Anh tặng em bài thơ có chữ Batos mà anh
học từ thằng bạn để em đọc cho vui nhé:
Bài thơ Bastos xanh như sau:
Bước em đi nhịp nhàng trong tiếng pháo
Anh đứng nhìn lòng ngơ ngẩn trông theo
Say đôi mắt từng nhìn anh đắm đuối
Tiếc bờ môi mềm dịu dáng mỹ miều
Ôm trong lòng một mối tình đang nở
Sống trong mơ một duyên kiếp bẽ bàng.
Mong bài thơ này sẽ làm em vui, nhớ giữ
sức khỏe dùm cho anh đó, khi về phép anh
sẽ thưởng
Yêu em Mai rừng"
Không ngờ lời dặn dò của anh trở thành
nỗi đau vĩnh biệt, ngày hôm đó, có người
lính mang lá thư về báo, anh đã gục ngã
giữa chiến trường khi giao tranh cùng
địch quân. Một viên đạn đã trúng vào lồng
ngực làm anh chết tại chỗ không kịp nói
lời nào, khi nghe báo tin anh tử trận tôi
bàng hoàng không tin vào tai của mình.
Tôi muốn khóc nhưng không thể khóc
được, có cái gì đó nghẹn ở cổ khó bật
thành tiếng. Tôi, tôi đã chuẩn bị áo cưới
cho cả anh và tôi nhưng giờ thì...!
Hỡi ơi! Áo cưới đã thay bằng áo tang bây
giờ chuẩn bị cái gì đây. Đón anh về trong
hoàn cảnh này ư? Tôi chết lặng người khi
chiếc xe chở anh trong quan tài được phủ
lá cờ vàng ba sọc đỏ có hai người bạn đồng
đội ngồi hai bên.
Anh mất đi khiến tôi thấy đời mình hụt
hẫng như không còn điểm tựa. Cái chết
thật dễ dàng và mau lẹ như một hơi thở,
mau lẹ hơn cả cái hôn vội vàng của anh
khi từ giã tôi.
Thời gian tuổi đời chồng chất, mới đó khi
nhìn lại tóc đã điểm sương. Chiến tranh đã
qua hơn bốn mươi năm, lửa lòng đã lạnh.
Hôm nay tôi lại mở ra những lá thư cũ tuy
đã úa vàng theo năm tháng, nhưng với tôi
là một kỷ vật vô giá mà lúc nào tôi cũng
trân trọng.
Tàn tro nguội lạnh từ lâu.
Bùi ngùi nhớ lại niềm đau thuở nào
Nhắc anh lệ vẫn tuôn trào
Lời tình mật ngọt rót vào trong tim
Mắt mờ đậm dấu chân chim
Buồn vui thì cũng nổi chìm thế nhân
Cuộc đời như thoáng phù vân
Giữ bao kỷ vật đến ngần ấy thôi.**.
** (Hoàng Phương Sadec)
Mai Bình Phương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 46
Đường xưa mờ hơi sương
Ngóng chờ ai trở lại
Nhớ những ngày trẻ dại
Ngập ngừng thú đau thương.
Thôi thì thôi không nói
Để con đường ngủ yên
Dẫu khi buồn lặng hỏi:
Ai, người nhớ, người quên?
Thời gian trôi không đợi
Thoáng từng ngày qua mau
Tuổi hoàng hôn đã vội
Lạnh lùng bước theo sau.
Đường xưa ngày đêm chờ
Gót tình vẫn chưa qua
Ai người lên tiếng gọi:
Người xưa đâu bây giờ?
Mai Bình Phương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 47
M
ùa đông như sắp tàn lụi, hoa tuyết
chồng chồng lớp lớp, xẹp dần, xẹp dần
như cái bong bóng xì hơi, mềm nhũn ra…
mềm nhũn ra, những giọt nước leo lách
quanh co, mãi liu riu thành dòng, chảy...
chảy...
Chiều thứ sáu, qua khung cửa, tôi nhìn
quanh bốn phương, chỉ thấy mây mù phủ
khuất ánh tà dương. Mưa, rỉ rả, cứ đều đều
rơi lộp bộp trên mái nhà tạo nên những âm
thanh nghe văng vẳng cái hoài cảm, mông
lung mà thần bí. Bầu trời nửa sáng nửa âm
u làm cho không gian sâu kín thêm, lạnh
lùng cô tịch thêm. Hẳn, đã tách rời khỏi
nhân gian. Nhìn trước ngó sau thấy như
không xa, mà hình như cũng không gần,
nó cứ thấp thoáng, nó cứ chập chùng…
chập chùng...
Gió thì cứ mãi rù rì với cây trơ lá, như
nhắn nhủ những điều thật bí ẩn của thiên
nhiên. Cành theo gió đong đưa, như ngàn
cánh tay vẫy gọi. Những giọt mưa đeo
cành, lung linh, lấp lánh, trong ánh sáng rã
rời, ảo mờ, gợi bao niềm nhớ từ ký ức cứ
ùa về, ùa về, nghe bâng khuâng những nỗi
niềm vu vơ, không tên, mênh mang, mênh
mang...
Bốn bề đang chìm đắm trong yên lặng.
Màn đêm kép lại. U tịch. Cõi đêm ngập
tràn, đầy những ngôn từ, những âm thanh,
thầm thì, rì rào. Những tương giao kỳ bí
của thần linh trong cõi tịch mịch, không
cùng. Nhân gian không thể hiểu.
Bên ngoài mưa vẫn còn rơi, mưa cứ mãi
rơi lộp bộp vang đều, vang đều những âm
thanh huyền hoặc, u áo.
Tôi, bên trong vẫn lặng nhìn một cảnh trời
đêm. Một bầu trời hun hút đầy thần bí,
huyễn hoặc trông bao la vô tận, mà hình
như cũng đang khép lại dần trong một
không gian u tịch, thần thoại.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 48
Thỉnh thoảng có một ngọn gió lùa qua làm
chao đảo mạnh cây cối rồi biến mất vào hư
không. Những lùm cây vây bủa bởi màn
đêm giờ trở nên đen ngòm, đen ngòm, trơ
trẽn, đong đưa, lay động, lay động. Xa xa
ẩn hiện những ánh đèn vàng cũ nhấp nháy,
chập chờn, như bản tình ca cao chới với,
nấc nghẹn, nhấp nhô, bồng bềnh, trong
đêm mưa gió hiu hắt.
Vâng, một buổi chiều cuối tuần vắng lặng,
trong thinh không, tôi ngắm những giọt
mưa rơi, óng ánh đậu trên cành khi chiều
đang khép lại. Những mầu nhiệm của
thiên nhiên huyền bí mãi đang biểu hiện
quanh ta triệu triệu năm qua, và mãi mãi,
mãi mãi...
Nguyễn Tài
Montréal 13-03-2020
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 49
Cuối tuần trời đẹp như đã sắp vào xuân.
Trời trong xanh cao thẳm. Nắng ấm chan
hòa, tuyết trắng tinh nằm phơi đang quên
mình chìm đắm trong giấc ngủ. Cứ để cho
xuân xanh tươi mượt thập thò bước chân
vào ngưỡng cửa. Những cánh hoa tuyết
mềm mại như buông xuôi tất cả nằm lắng
nghe những giọt nước long lanh đang rộn
ràng xuôi dòng theo ghềnh thác… tận trời
cao, những giọt nắng cứ mãi rơi đều trên
vùng tuyết trắng mênh mông. Gió hây hây
dìu dịu như tiếng ru của mùa xuân phảng
phất.
Tôi, trong một trạng thái tâm lý như lười
biếng, như không biết cần phải làm gì... cứ
buông. Mặc một ngày để tùy nghi như
chiếc lá khô trôi theo dòng nước chảy tự
nhiên. Vậy thôi, tôi cứ bước ra khỏi căn
phòng bé nhỏ tối tăm, để tìm một không
gian rộng rãi hơn, một không khí tươi mát
hơn. Và, hãy tùy nghi cho dòng suy nghĩ
của ngày cuối tuần, vô sự.
Tôi lái xe đến một tiệm cà phê. Mua mà
uống trong xe. Lang thang qua những nẻo
đường quen thuộc của thành phố, cảm
thấy trong lòng thật bình an như phép lạ
mầu nhiệm đang hiển bày.
Chạy dọc theo con đường Papineau dài,
xuyên nam bắc, rồi tôi quẹo phải trên
đường Emille-Journeau. Ở đây là một
công viên rộng mênh mông, tôi cũng đã
đến đây một lần vào mùa hè. Mùa hè đầy
cây cối um tùm xanh mát, có những hố
nước sâu hun hút, trong vắt, yên tĩnh, in rõ
cả bầu trời mây trắng long lanh. Thật làm
lòng tôi hấp dẫn yêu quý thiên nhiên hơn.
Hôm nay, trở lại trong mùa đông còn làm
tôi vô cùng ngạc nhiên. Một khung cảnh
siêu thực, hoành tráng. Một cõi trời đất
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 50
như không rào ngõ, buông lung, hoang dã.
Một cõi đất trời bao la vô tận.
Tôi không ngờ rằng có nhiều người đến
đây sinh hoạt trong mùa đông như vậy.
Người ta đi bộ, chạy bộ, tập thể dục, đi ski,
đi racket… con đường chung quanh công
viên này đi bộ phải mất hai giờ đồng hồ.
Tuyệt đẹp, một vùng không gian mênh
mông trong lành trắng tinh, như cuốn tập
mới ngày đầu nhập học. Bình an trong
từng bước chân.
Tôi hòa nhập theo dòng người, trôi êm
đềm theo điệu nước, bập bềnh lang thang
mà ngắm nhìn trời đất trắng toát bao la
không biên cương. Tôi bước trên tuyết
trắng tinh, mềm, xốp, phát ra âm thanh rào
rạt như tiếng nói tự lòng đất vang lên… có
những nơi bắt đầu tan biến thành vũng
nước trong, loang loáng, long lanh dưới
ánh nắng. Tôi đặt từng bước đi cẩn thận
theo lối mòn để đừng bị lún sâu.
Dòng người trôi bềnh bồng như lục bình
trên sông, vô tư lự, thật êm đềm bình an.
Tiếng nói, tiếng cười, vang vang trong
không gian, âm thanh ấy làm ấm áp, đầm
ấm, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Ở
giữa một khung trời tuyết trắng mênh
mang mà lại biến tan cái lạnh giá mùa
đông. Lạ nhỉ. Có phải chăng vì những trái
tim tràn đầy sự sống cùng hòa được theo
nhịp đập với trái tim thiên nhiên. Vâng, tôi
nghĩ vậy. Trên mỗi gương mặt mọi người
đều tỏa lên nét rạng ngời niềm yêu thương,
tin tưởng vào cuộc sống an lành nơi đây.
Vùng đất rộng thênh thang này, bao nhiêu
là công trình bồi đắp xây dựng bằng những
trái tim biết yêu thương và phục vụ cho
hạnh phúc, để bốn mùa được đều đặn sinh
hoạt cho dân cư thành phố. Tôi thật
ngưỡng mộ tấm lòng yêu nước, thương
dân chân chính của tổ tiên nơi đây.
Có một sinh hoạt rất đặc biệt vào mùa hè.
Đó là hội những người yêu thích diều,
người ta tổ chức một ngày thả diều. Ô! Cả
một vùng không gian vô cùng ngoạn mục
trong sắc màu rực rỡ đầy hào hứng, vui
nhộn. Lẽ đương nhiên, nhất là trẻ con
được tận hưởng niềm vui và hạnh phúc, no
nê.
Từng bước đi chậm rãi, tôi để lòng ghi ơn
những tổ tiên đất đai nơi này. Nghĩ, mà vô
cùng cảm động và thương họ đã đổ mồ hôi
chịu bao gian khổ bồi đắp quê hương đất
nước mỗi ngày để lo từng sinh hoạt cho
mọi người dân được an sinh vui hưởng sau
những ngày làm việc mệt nhọc. Những
công viên cho người lớn, cho trẻ con, luôn
có đầy đủ tiện nghi và nhân viên phục vụ
để đảm bảo an toàn cho mọi người.
Tôi thong dong từng bước trên con đường
trắng toát, giáp một vòng tròn mà đôi chân
không hề thấy mệt mỏi, người chỉ rươm
rướm mồ hôi. Hôm nay, trời thật đẹp và
mát rười rượi. Tôi có cảm giác gần gũi bên
mùa xuân đang vội đến. Hay mùa xuân
trong tâm tưởng làm cho tôi cảm nhận
được sự hân hoan, hạnh phúc trong lòng
nên được thấy gần gũi yêu mến thiên nhiên
mà biến tan cái lạnh giá và mệt mỏi.
Nguyễn Tài
Montréal 23-02-2020
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 51
Con ra đi Việt Nam giờ hấp hối
Bước đăng trình con biền biệt xứ xa
Nơi quê hương còn có bóng mẹ già
Ngồi tựa cửa trông con lòng khắc khoải.
Anh ra đi, giang sơn sầu đẫm lệ
Lời nghẹn ngào, xin từ biệt quê hương!
Nhìn xa xa, dần khuất những phố phường
Tim se sắt, từ đây đành cách biệt!
Bước chân đi không hẹn ngày trở lại
Một lạy này xin từ tạ mẫu thân
Mẹ, mẹ yêu, con gọi mãi bao lần
Mẹ tha thứ, con xin đành bất hiếu.
Thầm gửi em, muộn màng nhưng tha thiết
Nụ hôn nồng thay từ tạ cùng em
Mong em yêu cuộc sống được êm đềm
Xin đừng trách người anh nơi viễn xứ.
Đêm vắng lặng, đèn khuya hiu hắt chiếu
Nhớ nhung nhiều hình ảnh mẹ yêu ơi!
Bước chân con, dù góc biển chân trời
Mong được phút đoàn viên bên gối Mẹ.
Anh len chân theo đoàn người lữ thứ
Bước phong trần đâu biết được ngày mai
Anh xa em dù ngày tháng năm dài
Lòng nhớ mãi tình em-em nước Việt
Yên Vũ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 52
Tìm lại con đường xưa
Nhớ em mấy cho vừa
Ngày xưa em đứng đợi
Đôi vai gầy ướt mưa.
Trời buồn, trời mưa tuôn
Chơ vơ ghế đá buồn
Hắt hiu lòng nhung nhớ
Từng đêm về cô đơn.
Giữa đất trời mênh mông
Buồn se sắt cõi lòng
Em về phương trời ấy
Chạnh niềm nhớ ai không?
Từng bước đêm dần rụng
Lung linh ngọn nến tàn
Cúi nhìn ly rượu cạn
Sao cơn buồn chưa tan?
Yên Vũ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 53
Cha tìm con dọc theo bờ biển mặn
Sóng bạc đầu cuốn mất đứa con yêu
Cha lang thang bờ vắng chiều chiều
Tìm con mãi, dã tràng xe biển cát!
Mẹ tìm con dọc theo bờ biển mặn
Mẹ đợi chờ âu yếm một vòng tay
Mẹ lang thang đâu kể tháng kể ngày
Mẹ mong mãi con yêu về với Mẹ.
Em tìm anh dọc theo bờ biển mặn
Anh xa rồi, em hụt hẫng đôi tay
Tìm anh đâu sao lệ đẫm đêm ngày
Trong khoé mắt ái ân còn đọng nét.
Em dẫn con dọc theo bờ biển mặn
Bập bẹ hoài chưa gọi được tên cha
Nhìn con thơ, thương quá tuổi ngọc ngà
Vành sô trắng trên đầu sao quá vội…
Yên Vũ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 54
Khoảng giữa thế kỷ 20, lừng lững xuất
hiện một nhà văn không giống ai: độc đáo,
cuồng nhiệt, đam mê, sống hết mình, viết
cũng hết mình và dám đẩy ngòi bút mình
đi sâu vào những vùng cấm kỵ (tabou),
những vùng mà bức tường đạo đức kiên cố
cản ngăn, làn ranh văn học thời kỳ cũ mới
còn chưa rõ nét (Cuộc bút chiến về truyện
Kiều giữa giáo sư Phạm Thiều, đại diện
phe cựu học; và nhà chính trị Phan văn
Hùm, đại diện phe tân học từ Pháp về).
Sống hết mình, viết hết mình, chưa đủ.
Còn phải viết "sự thật, thật đến độ giống
như tự khoả thân trước cuộc đời, thì cái
tâm thành đó cộng với tài năng phải thành
nghệ thuật". Nhà văn nầy đã thực hiện
được lời của văn hào Dostoievsky: "Tôi đã
viết hết những điều mà thiên hạ chỉ dám
nói một nửa" (Nguyễn mộng Giác - Nghĩ
gì về Kiệt Tấn).
Người viết muốn nói đến: Hiện tượng
Kiệt Tấn
Ở Kiệt Tấn, người ta nhìn thấy nổi bật, ba
đặc tính: "Sống hết mình - Viết hết mình
và - Viết thật đến không còn chỗ để giấu".
Nhà phê bình văn học Nguyễn hưng Quốc
cũng không ngại ngùng, bình rằng: "Tôi ít
tin nhà văn nào như tôi đã tin Kiệt Tấn. Ở
những nhà văn khác, tôi thấy sự tài hoa. Ở
Kiệt Tấn tôi vừa thấy sự tài hoa vừa thấy
sự thành thật" (Nguyễn Hưng Quốc - bình
về Kiệt Tấn).
Người ta trách Kiệt Tấn viết bạo, viết sự
thật đến lõa lồ, viết những đoạn văn khiến
nhà đạo đức phải quay mặt đi chỗ
khác.Tuy nhiên nếu nhìn sang lãnh vực
hôi họạ người ta vẫn thấy nhan nhản, trong
các cuộc triển lãm, những bức hoạ về phụ
nữ khoả thân của Picasso thuộc trường
phái lập thể, trị giá hằng triệu $US, của
Pierre Auguste Renoir, của Vincent
Vangoch, Paul Gauguin, Lê Trung, Bùi
xuân Phái - những tranh khoả thân về phụ
nữ cũng dẫy đầy. Dường như không thấy
ai phê bình về sự kiện nầy.
Chỉ thấy nhà nghiên cứu văn học Nguyễn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 55
Vy Khanh nhân xét về một nhà thơ trước
những bức hoạ lõa thể: "Trực giác nhà thơ
như có ma lực khiến nhìn tĩnh vật sống
động. Người đẹp trong tranh như hiện
thành xác thịt, khiến nhà thơ Bích Khê
sống lại cả ngũ quan!"
(…) Nàng là tuyết, hay da nàng tuyết diễm
Nàng là hương, hay nhan sắc lên hương?
(…) Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi
Cho tôi nút môt dòng sâm ngọt lộng
Ôi! lồ lộ một tòa hoa nghiêm động
Tôi run run hãm lại cánh hồn si (…)
(Nguyễn Vy Khanh VNVH thế kỷ 20 - Bích
Khê, Tranh lõa thể, trang 229).
Trong lãnh vực văn chương, cũng không
thiếu những câu thơ, những áng văn mô tả
những xúc cảm trước cái đẹp thuần thẫm
mỹ và nghệ thuật của người phụ nữ. Thi
hào Nguyễn Du tả Kiều tắm:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Làu làu, sẵn đúc một toà thiên nhiên
Thật sự Nguyễn Du có thấy Kiều tắm bao
giờ? Chỉ là sản phẩm của tưởng tượng,
nhân nghĩ đề vẻ đẹp của người phụ nữ mà
viết ra, không chút khêu gợi dục tính, cũng
không làm động lòng tà dục, khi đọc hai
câu thơ nầy.
Một Nguyễn Tuân "nghe" được cái "tấm
tức sinh lý" trong một cuộc giao hoan lưng
chừng qua tiếng đàn hậm hực của cuộc
mây mưa không trọn vẹn. Qua tiếng đàn
mà "nghe" được cái "tấm tức sinh lý" phải
là người có một cảm nhận sâu thẫm và vi
tế của tâm hồn! Chẳng phải là nghệ thuật
sao?
Bình Nguyên Lộc phải đè nén cái "ái ân",
thâu ngắn nó lại, để cho "cái tiếc thương
dài ra" (Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc
thương). Một món ăn ngon mà chỉ ăn được
phân nửa, sẽ là một món ăn ngon suốt đời.
Một cuộc tình dang dở, ân ái nửa chừng,
sẽ là một cuộc tình yêu thương mãi mãi,
nhớ thương đời đời… Đó cũng là cuộc
"tình chỉ đẹp khi còn dang dở của Hồ
Dzếnh"; Vương Thực Phủ (Tác giả Mái
Tây,Tây sương Ký - Bản dịch của văn hào
Nhượng Tống). Tác giả Mái Tây thời
phong kiến với bức tường đạo đức cao
nghệu mà cảm tác được những bản văn tả
chuyện chăn gối phòng the như trong Mái
Tây thật hiếm có trên đời. Căp Trương
quân Thụy và Thôi Oanh Oanh giống như
"Romeo-Juliet" trong tuyệt phẩm của văn
hào Shakespeare, nhưng câu chuyện tình
của Thôi Trương, cảnh yêu đương còn cực
kỳ diễm ảo, táo bạo hơn nhiều nhưng là
một sự táo bạo đầy thẫm mỹ nghệ thuật thi
ca:
Sau khi giả vờ mắng Trương một trận, khi
Trương trèo tường sang nhà Thôi. Thế
nhưng nàng Thôi "lòng trong như đã mặt
ngoài còn e" một đêm trăng, theo con hầu
sang nhà trọ của Trương tại Mái Tây chùa
Phổ Cứu. Hai người gặp gỡ nhau. Chàng
Trương quỳ xuống đỡ nàng lên. Nàng
Thôi e thẹn: "Cúi đầu chẳng chịu trông
lên. Hai tay lần mãi đường viền gối thêu".
Tình yêu đã lên tới đỉnh điểm, Vương
Thực Phủ hạ bút:
Tha cho nhau tội lần khân
Mở dần khuyết áo, cởi lần giây đai
Chưa quen ngây ngất cả người
Buồng khuya lan xạ ngát mùi hương
xông
Then mây mở cửa động đào
Đào tiên hớn hở đón chào tin xuân
Rồng mây cá nước mặn mà
Nụ đơn nở, giọt sương sa đầm đìa
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 56
Nhị non hương sớm bốn bề
Tha hồ con bướm đi về thong dong.
(Vương Thực Phủ - Mái Tây, Tây
sương Ký, trang 291)
Bảo rằng tục thì hơi nặng lời. Bảo rằng
không tục thì sự thật rõ ràng trước mắt, ai
đọc cũng hiểu. Thế phải dùng ngôn ngữ
nào đây? Có lẽ là những giây phút rung
cảm trước vẻ đẹp thẩm mỹ của phái nữ mà
tưởng tượng ra những hình tượng đẹp đẽ,
đầy tính chất nghệ thuật bằng những vần
thơ bát ngát, mênh mông, ngôn từ như
mây như khói, ẩn dụ mờ ảo như lạc vào
chốn Thiên Thai. Không thể kết án là khêu
gợi mà cũng không thể nói không gây chút
xao xuyến nào trong lòng độc giả. Kim
Thánh Thán viết: "Thơ Quốc Phong mê
gái mà không dâm. Trời ơi! Mê gái với
dâm thì có khác nhau là mấy? Theo ý tôi
(Kim Thánh Thán) thì mê gái mà không
dâm, ấy là kẻ chắc chưa từng mê gái bao
giờ! " Kiêt Tấn đọc câu nầy chắc là mừng
lắm! Mấy trăm năm trước đã có người nói
hộ giùm tư tưởng của mình. Và có lẽ mấy
ngàn năm sau có lẽ cũng thế.
Người viết dẫn ra nhiều thí dụ của dòng
văn học truyền thống được nối dài qua
dòng văn học hải ngoại, để chứng minh
rằng trước Kiệt Tấn, đã có nhiều thi ca, hội
hoạ cũng đã nói nhiều về vẻ đẹp của người
phụ nữ trong trạng thái nguyên thuỷ,
nhưng với Kiệt Tấn thì khác, trần tục và
táo bạo hơn.
Hiện tượng Kiệt Tấn
Hiện tượng thì có nhiều trong các lãnh
vực: thiên nhiên, sinh hoạt con người, sinh
hoạt văn chương, hội hoạ. Tuy nhiên,
trong lãnh vực văn học, phải có cái gì khác
biệt, nổi bật mà người khác không có hoặc
có mà chỉ phớt qua, hay che giấu, tránh né
vì ngại đụng chạm, vì sợ dư luận, vì e bị
đánh giá lá vô đạo đức. Kiệt Tấn có cái
ngưới khác không có. Kiệt Tấn không ngại
những điều người khác ngại, cộng thêm
cái thật và tài năng, Kiệt Tấn được các nhà
văn học xếp vào một hiện tượng trong
dòng văn học hải ngoại.
Nhà văn khác có thể khai thác vùng đất
cấm bằng con mắt kỹ thuật, kiểu cách.
Nhưng Kiệt Tấn thì lừng lững bước vào
bằng sự đam mê cuồng nhiệt, quằn quại
điên cuồng, nồng nàn tha thiết nhưng
không thiếu nét nghệ thuật, văn chương.
Do đó, tác phẩm của ông lôi cuốn người
đọc.
Về tình yêu, Kiệt Tấn quan niệm: "Riêng
tôi, tôi không quan niệm tình yêu mà
không có tình dục. Nếu ép tôi bỏ một chữ,
có lẽ tôi giữ lại tình dục". (Đêm cỏ tuyết,
trang 61) và Kiệt Tấn khi yêu thì "Yêu điên
cái đầu, yêu mù con mắt. Yêu đứng tim.
Yêu tắt thở. Yêu hết thuốc chữa. Với
Louise trở lại thì sau khi dứt bản đàn và
mấy câu ca lõm bõm, chính nàng thổi tắt
ngọn đèn cầy và trong bóng tối nàng ôm
tôi siết thiệt chặt, hôn lên môi một nụ hôn
rất dài có hương vị hoa hồng. Nàng xô ngã
tôi lên giường và tiếp tục đóng vai chủ
động. Tôi nhận đón nhận mình mẩy nàng
nhồi sóng trên thân thể mình, từng đợt xô
tới, từng đợt xô lui, chập chùng…chập
chùng từng đợt. Nàng nói lảm nhảm
những gì tôi nghe không rõ, chỉ nghe
loáng thoáng tiếng khóc… Je t’aime… I
love you Bambino! " (Nụ cười tre trúc,
trang 214).
Về đàn bà, Kiệt Tấn phát biểu: "Tôi ghiền
đàn bà như ghiền ma túy. Không có đàn
bà, tôi cảm thấy sự sống trống rỗng, mênh
mông, hoang vu dễ sợ. Tôi có thể ngã ra
chết được" (Thương nàng bấy nhiêu, trang
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 57
82).
Cuộc sống Kiệt Tấn không bao giờ thiếu
đàn bà, hết Louise, Danyèle, Andrée
(Québec) Hélène (Montmartre), đến cô gái
vùng quê Chicoutimi xuống Québec học
nghề, rồi cô gái Ý quên tên v.v… (chưa kể
Việt Nam): "Tôi lăn lóc bập bềnh theo
triều âm của yêu nữ lôi cuốn. Tôi thay
người yêu. Tôi đổi người tình. Mấy bận
mấy em cười, bao lần mấy em khóc. Người
tình thay đổi theo bông hoa đổi thay của
thời tiết. Nằm gần Louise, tôi muốn chung
tình với Louise, nhưng khi nằm gần
Danyèle tôi lại quên hết. Nàng có một nữ
tính rất kỳ lạ. Nàng có một âm lực rất kỳ
lạ. Trong dòng âm lực đó, tôi chỉ là một
cọng thép bị cuốn phăng trong dòng từ
tính mãnh liệt. Tôi không rõ trời đất có
từng tạo ra một sinh thể nào liền lạc hơn
Danyèle không? Núi đồi mà phẳng phiu,
cao nguyên mà châu thổ, chập chùng mà
suông mượt. Tưởng ao hồ mà sóng lớn,
tưởng êm xuôi mà chớn chở không ngừng.
Dở coi. Nàng cười rúc rích "Đừng anh,
nhột em mà" (Nụ cười tre trúc, trang 200).
Ngôn ngữ tả đàn bà của
Kiệt Tấn rất lạ. Không
giống với những nhà văn
khác. Kiệt Tấn chỉ tả đàn
bà ở trạng thái uyên
nguyên (không quần áo).
Cái lạ, cái khác biệt trong
tình yêu cũng như trong
ngôn ngữ, vượt ra ngoài cái
thông thường. Nhìn chung,
quả tình Kiệt Tấn không
giống ai và đam mê cuồng
nhiệt. tham lam, yêu
thương nồng nàn, có khi
trâng tráo, sống sượng đến
bệnh hoạn (ngó thấy là
muốn đè xuống tuột quần, trang 245 sđd),
có khi rên rỉ, ngất ngư, mê mệt; nhưng
dưới cái vỏ sần sùi, dung tục đó, che giấu
một sư thật và lòng yêu thương chân
thành.
Sống hết mình, viết hết mình, Kiệt Tấn
còn Thật cũng hết mình. Những cuộc tình
là thật, không hư cấu tưởng tượng. Những
tên tuổi bất cứ ai trong tác phẩm đều là tên
thật, tên anh chị em trong gia đình: hai
Phát, ba Lợi, tư Trinh, năm Lộc, sáu Kiệt
(còn có biệt hiệu là Út Bạc Liêu, trang 11)
và Ánh, người bạn đời cũng không tha,
cũng có mặt trong tác phẩm. Những bạn
bè Kiệt Tấn cũng hoàn toàn là tên thật:
Thứ, Nhựt, Lộc, Danh, Kiệt. Cây đa mấy
lá, chúng anh "săn đá" 5 thằng. Cả anh
Ngại làm thợ mộc, thằng Gia bạn của Kiệt
Tấn cũng là tên thật tuốt luốt. Tên tuổi
người tình của anh cũng tên thật luôn
(Tuyết, Louise, Danyèle, Hélène, Tuyết,
Cẩm Hồng, Ánh v.v…)
Kiệt Tấn còn nhìn quê hương qua hình
ảnh của mẹ già, nghe tiếng cười của mẹ
qua tiếng tre trúc rì rào. Ông viết về mẹ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 58
bằng một văn phong thật thiết tha: "Nếu
ngọc trai là ngọc của sò biển, nếu gạo thóc
là hạt ngọc của trời thì nước mắt là ngọc
của má tôi. Cả đời tôi má buông nhả loại
ngọc đó rất nhiều, cho bất cứ gì, cho bất
cứ ai, vô tình hay cố ý, đến gõ trái tim bà.
Tôi thường ví trái tim bà là một bồ lúa,
mỗi hột lúa là một mối thương tâm, một
mối thương tâm rất gần với chữ từ bi. Bởi
vậy khi má tôi khóc, đừng tưởng bà đau
khổ, đừng tưởng bà hy sinh rút ruột cho
con ăn. Khi sung sướng, người ta có thể
chảy nước mắt. Vì vậy nước mắt của má
tôi cũng rì rào như nụ cười tre trúc của
bà: thương yêu che chở và rộng lượng".
(Nụ cười tre trúc, trang 20-21).
Thương quê hương qua hình ảnh của bà
mẹ già mà có người cho rằng bà là tượng
trưng cho quê hương. Kiệt Tấn nói:
"Không, Bà mẹ già ấy chính là quê hương.
Vì vậy, ông thương cả những bà già bán
cà rem cây, bà già bán đậu phọng lép,
bà già lượm lon" "Trời hỡi! sao thương
quá sức! "; "Thương đứt từng khúc ruột"
(sđd, trang 152).
Kiệt Tấn còn quan niệm về lãnh tụ là "tủ
lạnh" và triết lý cuộc đời là triết lý cái "lỗ
rún": Ngó lỗ rún của mình mà lý luận. Mê
lắm (Sđd, trang 133).
Kiệt Tấn là người miền Nam, ruột để
ngoài da, hay nói toạc ra những gì mình
nghĩ, không quanh co, rào đón trước sau.
Ngôn ngữ sặc mùi Nam bộ: "Con thằn lằn
nó hiền thấy mồ" "Ầu ơ! Má ơi! Con vịt
chết chìm, Con thò tay vớt nó, cá lìm kìm
rỉa tay", "dị hụ quá! " "qua hẹn qua qua,
bây giờ qua qua". Một chiếc xe bán mì,
dừng lại trước nhà nàng, một người đàn
ông đi xâm xâm về phía tôi, dừng lại, cất
tiếng hỏi: "Ai ló? Ai lứng ló? " Giọng cắc
chú lơ lớ. Tôi vừa trả lời nho nhỏ: "Tui
đây, Tui đây mà… Nhà tui ở gần đây" -
"Zậy hả? Xao lị không ỉa chong nhà mà lị
da ỉa lây làm cái zì? " - "Tui…tui đi lượm
banh" - "Hà! Chòi lất ơi mí tỏn xáng mà lị
lá banh thì pà con lối xóm làm xao ngủ cho
liệt? " - "Hổng có đá" - "Ồ ồ… Mà lị làn
cái zì kí thụt da thụt dô hoài làm ngộ tiểng
lị là thằng ăn chộm chí! Hầy lá!... " Văn
Kiệt Tấn là vậy đó. Thật lạ và độc đáo.
Gọi Kiệt Tấn là một hiện tượng - một hiện
tượng văn học. Vì trước Kiệt Tấn không
có (Có nhưng không giống) và sau Kiệt
Tấn thì chưa thấy… Văn phong ngọt ngào
lôi cuốn. Ngôn ngữ thuần chất Nam bộ
không pha trộn, nhiều điệu hát huê tình,
câu hò hẹn ước làm xao động cả dòng sông
Tiền, sông Hậu, sông Cổ chiên, sông Mỹ
Tho. Tình yêu, nhứt là tình yêu đàn bà, có
lẽ là tuyệt chiêu của Kiệt Tấn. Đi đâu, chỗ
nào cũng có người yêu, cũng có cảnh ái ân
say đắm, chia tay ngậm ngùi! Tự hỏi sao
có quá nhiều người yêu quá vậy? KT hư
cấu, tưởng tượng? - Không, là thật đấy!
Tình yêu quê hương qua mẹ già, qua mấy
bà già lượm lon, bán đậu phộng, bà già bán
cà rem cây, nghèo khổ thiệt thà, ôi!
"thương quá là thương". Lại còn xen vào
thi ca qua các cuộc tình: "Ra về để áo lại
đây. Để khuya anh đắp gió Tây lạnh lùng".
Chia tay người yêu cũng đầy thi tính:
"Mây tối nay về u ám quá, đường sầu ướt
át phố mờ sương, ta xé lòng nhau làm mấy
mảnh, em một phương trời anh một
phương!" Mượn lời của Lý Trác Ngô đề
tựa Mái Tây để kết luận - một cách chủ
quan rằng: "Viết văn, để lại tấc lòng cho
ngàn đời đáng thương biết mấy! "
Tuy không dám so sánh Kiệt Tấn với
người xưa, nhưng qua những Bình,
Thương, Nghĩ của Nguyễn Hưng Quốc,
Thuỵ Khuê, Nguyễn Mộng Giác và nhận
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 59
xét của Đoàn Nhã Văn. Nguyễn Mạnh
Trinh, phỏng vấn của Phan Thị Trọng
Tuyến và Đặng Mai Lai, người viết rất tán
đồng nhận xét cùng với các vị trên rằng:
Kiệt Tấn đã có một chỗ đứng trên dòng
văn học hải ngoại.
Lê Quốc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 60
Hôm nay về lại trần gian
Trong tâm mang gói hành trang vô thường
Chuyện đời sẽ nhẹ như sương
Tan trên cỏ biếc dọc đường Thiền đi
Lòng không lạc tới bến mê
Ngồi nghe khúc hát ngày về bên sông
Trời xanh mây trắng mênh mông
Bay đi giữa cụm nắng hồng hoàng hôn
Không vương vào túi càn khôn
Để tâm vô thức tạo muôn lụy trần
Đường về túi nặng hồng ân
Chân tâm làm vốn xa dần Thiền trang
Hôm nay về lại trần gian
Trong tâm mang gói hành trang vô thường
Chuyện đời còn lắm tơ vương
Ngồi nghe khúc hát Nghê Thường bên sông
Nguyễn Hải Bình
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Hải Bình 61
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Hải Bình 62
Bỗng dưng có vạt nắng hồng
Trên cao rớt xuống bềnh bồng trong mây
Lối mòn len giữa hàng cây
Có tôi đếm bước như ngày hôm qua
Thân tâm tỉnh thức thăng hoa
Để không tham ái họa là hận sân
Để không tiếc nuối phù vân
Sẽ không tạo nghiệp trầm luân một đời
Sinh ra một kiếp làm người
Nhân gian thế sự buông trôi ngày về
Để rồi không lạc bến mê
Đâu đây bến Giác nẻo về Hằng giang…
Nguyễn Hải Bình
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Hải Bình 63
N
hận được điện thư của bà chị dâu báo
tin sức khỏe của mẹ không được tốt
lắm, Mỵ Khanh bàn với chồng năm nay
nàng về ăn Tết với mẹ một tháng. Nam,
chồng Mỵ Khanh thì nhất định không về
VN, khi mà đất nước vẫn còn dưới ách
thống trị của Bắc quân!
Với số tuổi tám mươi chín, bà Tân đã như
ngọn đèn sắp hết dầu. Tuy chỉ hơi bị lẫn,
nhưng bà vẫn ăn ngủ bình thường, nói
cười sang sảng. Thỉnh thoảng lên cơn
suyễn, nhờ có thuốc của người anh rể Mỵ
Khanh từ Canada gửi về nên không có gì
đáng ngại. Hai năm nay cặp chân yếu hẳn
nên bà ngồi một chỗ. Mỵ Khanh đã gọi về
bao nhiêu lần, nói mẹ phải đi lại thường
xuyên thì các bắp thịt mới không bị teo.
Bà nhất định không nghe vì bị té nhiều lần
khiến bà sợ hãi.
Trước khi đi một tuần nàng ăn ngủ không
yên. Viết giấy dán trên tủ lạnh dặn dò con
gái một tuần hai lần tưới cây cối và trông
chừng ba mươi giò lan cho mẹ. Con gái la
trời vì mẹ cứ dặn đi dặn lại thứ nào một
tuần hai lần, thứ nào một tuần một lần, thứ
nào phải xịt nước lên lá. Còn một số cây
kiểng để trong garage, v.v….và v.v…
khiến con bé cứ lộn tùng phèo. Sau cùng
Mỵ Khanh đành thở dài, tự an ủi đến đâu
hay đến đó. Cây nào may mắn thì sống.
Không đủ may thì nghẻo! Nam thì mỗi
chiều chịu khó ghé nhà con gái ăn cơm.
Nếu không anh ta dám nhịn ăn, vì tài nấu
bếp chỉ hạn chế ở món trứng chiên ốp la
(đôi khi khét!) Thấy vợ lo lắng Nam chép
miệng:
- Em cứ lo con bò trắng răng. Cưng quên
là hồi xưa anh đi hành quân liên miên, khi
trong rừng, lúc trên núi. Lính tráng đánh
giặc ăn toàn lương khô khó nuốt, vậy mà
anh vẫn sống hùng, sống mạnh. Em đi có
một tháng mà cứ lo anh chết đói. Yên chí
về thăm mẹ cho vui vẻ. Bảo đảm lúc em
trở qua, anh vẫn còn sống nhăn. (Nam đổi
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 64
giọng tếu), mà không chừng vắng cô Bắc
Kỳ nho nhỏ (của ngày xửa ngày xưa!),
không phải hằng ngày nghe cái điệp khúc
"anh phải ăn cái này, anh phải uống cái
kia. Ý, không được làm cái nọ, nguy hiểm
cho sức khỏe lắm…." anh sẽ… trẻ ra cả
chục tuổi!
Mỵ Khanh háy chồng, mắt có đuôi:
- Xí, tại người ta lo cho mình chứ bộ!
Được rồi. Cho mấy người tự lực cánh sinh.
Ít bữa coi có cần bà già này không. Chỉ sợ
có lúc sẽ năn nỉ tui mau mau trở qua…
Chừng đó biết tay tui nha!
Nam cười cầu tài:
- Đùa thôi. Anh lúc nào chẳng cần đến bàn
tay ngà ngọc của em săn sóc.
Mỵ Khanh cười:
-Vậy mới là
người thức thời!
Các ông sổng vợ
ra là… hỏng
ngay!
- Thôi, thôi, biết
rồi. Khổ lắm nói
mãi! Anh chịu
thua!
Vợ chồng Mỵ
Khanh là thế.
Hơi khắc khẩu
nhưng yêu nhau thắm thiết. Ngày xưa
Nam đã theo đuổi nàng khổ sở mới lấy
được. Ở ngoại quốc trai thừa gái thiếu mà
lị!
***
Hai ngày trước khi lên đường, xem TV
thấy bên New York và Boston chìm ngập
dưới tuyết. Bao nhiêu chuyến bay bị dời
lại, Mỵ Khanh lo quá. Lần này phi cơ sẽ
ngừng ở phi trường Chicago trước khi tiếp
tục đi Hồng Kông và trạm cuối là Phi
trường Tân Sơn Nhất. May mắn đến ngày
cuối, Chicago nắng đẹp. Nhưng phải ra
phi trường lúc ba giờ sáng khiến Mỵ
Khanh lo lắng thức luôn không dám ngủ.
Mỗi lần qua đoan Mỹ là bực mình hết sức.
Mặt mày mấy anh chàng nhân viên lạnh
tanh, không thua khí hậu ngoài trời là mấy.
Hình như nhìn ai họ cũng thấy toàn là
dân… khủng bố. Tháng vừa qua, vợ chồng
Mỵ Khanh sang Mỹ thăm người bạn bị
bệnh nặng, Nam bị bắt đi qua máy
scanner. Chàng bất mãn, vì mỗi lần qua cái
máy này, trong người bị nhiễm không
nhiều thì ít chất phóng xạ!
Trước khi chia tay, Mỵ Khanh căn dặn
chồng đủ thứ. Nam gật đầu lia lịa cho vợ
an lòng. Ôi, đàn bà Việt Nam! Lúc nào
cũng chỉ biết lo
cho chồng con.
Họ vui vẻ, hạnh
phúc là các bà
vui vẻ hạnh
phúc!
Phi trường
Chicago rộng
mênh mông,
nhưng được chỉ
dẫn chu đáo.
Tìm đến phòng
đợi, nàng gặp vài người quen cũng về Việt
Nam ăn Tết. Người đến từ Florida, kẻ đến
từ Minnesota. Trẻ con chạy rần rần, người
lớn thì người nằm kẻ ngồi la liệt. Nói
chuyện cười hỉ hả thoải mái. Mỵ Khanh
nhớ lần chuyển máy bay từ phi trường
Charles De Gaulle bên Pháp, nàng đã gặp
những gia đình Việt nam đi lao động từ
Bắc Âu về Việt Nam ăn Tết. Trẻ con độ ba
đến sáu bảy tuổi rượt đuổi nhau, la hét ầm
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 65
ĩ. Chúng giựt những chiếc điện thoại công
cộng từ trên giá xuống chơi. Sau đó bỏ treo
tòng teng. Thế mà bố mẹ chúng vẫn bình
thản nhìn đàn con chơi đùa như đang ở nhà
mình. Những người ngoại quốc ngồi đó thì
cau mày khó chịu! Mỵ Khanh không còn
ngạc nhiên khi thấy nhiều người Việt Nam
không còn dám nhận mình là người Việt
khi người ngoại quốc có hỏi!
Đẩy xe hành lý ra ngoài trong cái nóng
hầm hập, tuy đã là cuối tháng mười hai.
Mỵ Khanh nhìn dáo dác. Những tiếng gọi
mừng rỡ "Cô. Cô. Tụi con đây nè!" khiến
nàng quên hết mệt nhọc, sau hai mươi
tiếng đồng hồ ngồi trên ba chuyến bay.
Các cháu, con người anh quá cố của Mỵ
Khanh, chạy đến vây quanh cô. Nàng nhìn
các cháu lòng rưng rưng. Khi nàng rời
khỏi đất nước thì có đứa còn chưa ra đời.
Thế mà giờ đây đứa nào cũng con cái đề
huề. Mỵ Khanh lên chiếc taxi bảy chỗ ngồi
cùng các cháu về nhà. Bà chị dâu ngoài
sáu mươi, năm nay tóc đã bạc nhiều hơn
bốn mươi năm trước. Mỵ Khanh thương
chị vô cùng. Không hiểu sao ông anh duy
nhất của nàng lại ham con đến thế. Hai anh
chị hợp đồng sản xuất cả thảy một chục
mười hai! Nàng nhớ ngày xưa, chị lúc nào
cũng đầu tắt mặt tối, không khi nào ngơi
với đàn con mười hai đứa. Có món ngon
vật lạ gì đều nhường cho chồng, cho con.
Thế mà vẫn bị mẹ chồng bắt ne bắt nét.
Bà Tân mong con gái về, nên dù đã hơn
mười một giờ bà vẫn còn thức để chờ. Mỵ
Khanh xót xa khi thấy mẹ gầy hơn trước.
Nàng ôm mẹ giọng nghẹn ngào:
- Lần này con thấy mẹ gầy hơn trước. Mẹ
ăn ngủ không được sao?
Bà Tân cười móm mém:
- Mẹ già rồi ăn ngủ ngày càng ít đi con ạ.
Không sao đâu, mẹ khỏe lắm. Con về chơi
được bao lâu?
- Con về thăm mẹ một tháng. Đáng lẽ ở
lâu hơn, nhưng cháu Mỵ Hoa sắp sinh, con
phải về sớm.
Bà Tân nhìn sang chị Tiến, chị dâu Mỵ
Khanh, cười sung sướng:
- Thế là tôi lại có thêm cháu cố. Phúc đức
quá!
Chị Tiến hối con dọn phở gà cho cô ăn
trước khi đi ngủ. Lần này đi hãng United
Airline cho ăn tệ quá nên Mỵ Khanh ăn tô
phở gà (nhất là gà đi bộ, da vàng ươm, thịt
dai chứ không bở rệp như gà công nghiệp)
một cách ngon lành. Cả nhà nói chuyện
đến hơn một giờ đêm mới chịu đi ngủ. Mỵ
Khanh ngủ một giấc ngon lành đến 7 giờ
mới dậy. Lúc bước ra khỏi phòng, mùi
thức ăn thơm phức khiến nàng thấy đói
bụng cồn cào. Cả nhà đã thức từ lâu và
đang dọn ăn sáng. Chị Tiến hỏi:
- Cô ngủ ngon không? Chắc trái giờ còn
khó chịu lắm.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 66
Mỵ Khanh suýt soa:
- Chà thơm quá! Mấy hôm trước khi về tới
đây mất ngủ, nên đêm qua em ngủ ngon
lắm. Chị làm món gì mà thơm thế hở chị?
Chị Tiến cười:
- Mẹ nói cô vẫn thích xôi lúa nên sáng nay
chị thổi xôi lúa và bánh cuốn cho cô dùng.
Cô ngồi xuống đi. Để chị pha cà phê rồi
mời mẹ ra ăn sáng luôn. Năm giờ mẹ đã
thức rồi.
Mỵ Khanh vội vàng nói:
- Chị để đó em tự pha được rồi. Em uống
cà phê không đường. Sợ bị mắc bệnh tiểu
đường thì khổ, nên giờ hạn chế chất ngọt
tối đa.
Chị Tiến cười khanh khách:
- Buồn cười thật cô ạ. Người nào ở nước
ngoài về cũng ăn lạt như nước ốc. Kiêng
đường, kiêng muối tối đa. Chị thì chịu
thôi. Kiêng quá cũng không tốt đâu. Có
khi trong người thiếu chất mặn, ngọt thì bỏ
xừ!
Mỵ Khanh cũng cười: - Ông bà ta nói "có
kiêng có lành" mà chị. Thôi để em vào mời
mẹ ra ăn sáng.
Chưa kịp vào thì bà Tân đã lọ mọ đi ra:
- Gớm, mới sáng mà các cô nói gì rôm rả
thế? Mỵ (trong nhà gọi Mỵ Khanh là Mỵ
cho gọn) ăn chưa con?
Mỵ Khanh dìu mẹ ngồi vào bàn:
- Con chờ mẹ ra mới ăn. Đêm qua mẹ ngủ
ngon không? Con thì ngủ một giấc thẳng
cẳng đến sáng. À, chị Tiến ơi, chút nữa em
cần liên lạc với một người quen. Cô ấy ở
ngoại ô xa xa. Em chỉ mới liên lạc vài ngày
trước khi về đây. Cô ấy tên Kim Ngân.
- Bạn của cô hở?
- Không. Em chưa từng gặp qua. Có vài
người bạn bên Canada và Mỹ nhờ em
mang tiền về giúp cho các anh em Thương
phế binh đang sống trong hoàn cảnh khó
khăn. Gọi là chút quà mọn giúp cho gia
đình các anh ăn Tết ấy mà. Cô Kim Ngân
biết những người này. Em liên lạc để cô ấy
dẫn em đi thăm và tặng quà.
Chị Tiến gật đầu, mặt thoáng ngậm ngùi:
- Thế thì tốt quá. Thỉnh thoảng chị đi phố
gặp những người cụt tay cụt chân lê lết ăn
xin ngoài đường. Trông họ nhếch nhác,
rách rưới, bệnh hoạn mà muốn rớt nước
mắt. Những lần đó chị đều giúp đỡ chút ít.
Cô nghĩ, nhà mình lúc trước cũng đâu khá
giả gì.
Bà Tân xen vào:
- Tội nghiệp họ. Con giúp họ là tích phước
cho con cháu.
Mỵ Khanh cười:
- Con chỉ làm hộ cho các bạn con thôi mẹ
à. Với lại "thi ân bất cầu báo" mà mẹ!
Ba người vừa ăn vừa nhắc chuyện xưa.
Anh Tiến của Mỵ Khanh mất trên mười
năm rồi. Hồi xưa anh cũng ở trong quân
đội một thời gian, bị thương nên được giải
ngũ. Về sau anh mất vì viêm gan. Chị Tiến
ở vậy nuôi đàn con và mẹ chồng. Vì thế
Mỵ Khanh rất quý chị.
Ăn xong nàng gọi điện thoại cho Kim
Ngân. Một giọng Huế nhẹ nhàng từ đầu
giây bên kia:
- Dạ, em nghe đây!
- Kim Ngân hả? Biết ai đây không? Nghe
giọng Huế nhẹ như thơ hay quá là hay!
Thôi nói ngay khỏi thắc mắc nhé. Chị Mỵ
Khanh đây.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 67
Có tiếng reo vui ở đầu giây bên kia:
- Ô, chị Mỵ Khanh! Chị về hồi nào?
- Chị về tới tối hôm qua. Ngày mai em
rảnh không? Chị em mình sẽ gặp nhau.
Giọng Kim Ngân ngập ngừng:
- Chị Khanh ơi, hôm trước em có báo cho
các chị trường hợp anh Quân đang nằm
nhà thương, hôm nay anh về nhà rồi vì bác
sĩ chê. Anh bị lở loét hết cả người, máu mủ
tùm lum chị ạ. Em vào thăm mà anh cứ
chảy nước mắt! Nhưng hôm qua có người
bên Mỹ gửi cho anh ấy ba trăm. Vì thế chị
em mình không cần phải giúp cho anh ấy
nữa. Em hỏi thật chị nhe. Các anh chị định
giúp bao nhiêu tiền để em tính.
Sau khi nghe con số, Kim Ngân nói:
- Vậy chúng ta sẽ giúp cho 6 anh. Mà họ ở
xa lắm, tận Biên Hòa lận. Chị có thể đi đến
đó được không?
Mỵ Khanh sốt sắng:
- Được chứ em. Em cứ cho địa chỉ đi. Chị
sẽ đi taxi đến đó.
Kim Ngân ngập ngừng:
- Chị ơi, nếu chị em mình đi làm từ thiện,
mà chi ra 600 ngàn tiền taxi thì em thấy
phí quá. Số tiền này một người có thể sống
cả tháng đó chị ạ. Em nghĩ vậy nhưng còn
tùy chị. À chị có thể đi xe gắn máy không
chị? Từ đây lên đó độ ba mươi cây số. Đi
về vị chi là sáu mươi cây.
Mỵ Khanh giật mình, tự thấy ngượng nên
vội nói:
- Nếu vậy cách tốt nhất là Kim Ngân đến
nhà, rồi chị sẽ đưa tiền. Tùy em muốn cho
ai cũng được nhé.
- Thế thì độ hai tiếng nữa em đến chị nhé.
Em phải nhờ người trông hai đứa cháu nội
rồi mới đi được. Hôm nay con dâu em đi
làm chị ạ. Mà chị ơi, chị đưa tiền cho em
như vậy chị không sợ sao?
- Sợ gì cơ? Sợ em giật hả? Chị sẽ níu áo
anh Hưng bên Mỹ.
Hai chị em cười dòn dã. Kim Ngân có
người anh lớn bên Mỹ. Anh Hưng sang
theo diện HO. Trong gia đình có hai người
anh tử trận. Một người trận Bình Giả, một
người trận Bình Long nên Kim Ngân rất
thương các anh thương phế binh. Lúc nào
rảnh là cô đi tìm các anh để cho tiền. Khi
thấy trường hợp nào thê thảm quá thì cô
liên lạc với anh trai bên Mỹ, nhờ anh vận
động bạn bè xin giúp. Vợ chồng Mỵ
Khanh quen Hưng qua một người bạn thân
của Mỵ Khanh. Nghe nàng về, cô bạn
mừng quá, gửi điện thư nhờ Mỵ Khanh
cầm tiền về. Nàng liên lạc vài lần với Kim
Ngân. Thế là quen.
Lúc cô cháu gái mở cửa mời khách vào,
Mỵ Khanh không khỏi ngạc nhiên vì Kim
Ngân đứng trước mặt nàng trẻ và xinh đẹp
hơn nàng tưởng tượng. Hai chị em tay bắt
mặt mừng. Mỵ Khanh không khỏi ái ngại
vì Kim Ngân phải đổi vài chuyến bus mới
tới đây. Nghe Mỵ Khanh nói, Ngân cười
hiền lành:
- Nếu được làm hơn thế nữa em cũng làm
chị ạ. Nhìn các anh thương lắm cơ. Những
người ở thành phố nhận được giúp đỡ
thường, nhưng các anh ở xa, có người từ
mấy chục năm qua vẫn không nhận được
bất cứ sự giúp đỡ nào từ nước ngoài. Hôm
qua em phải lên chùa Từ Quang tìm anh
Thân. Anh cụt hai chân, một tay không xử
dụng được. Hằng ngày anh xin ăn trong
thành phố. Chỉ cuối tuần mới lên xin trên
chùa. Chùa ở xa, anh lại cụt hai chân nên
không đi bus được. Lần nào cũng đi xe
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 68
ôm. Có ngày xin không đủ trả tiền xe ôm
nữa đó chị. Thế là đói!
Mỵ Khanh kêu lên:
- Sao ông xe ôm không chở dùm mà lấy
tiền?
Kim Ngân cười khổ:
- Chị ơi, ông xe ôm cũng phải sống chứ.
Chở dùm lấy tiền đâu nuôi vợ con hở chị?
Mỵ Khanh thấy yêu tiếng "Chị ơi" của
Kim Ngân quá. Nàng tò mò:
- Thế em có tìm ra anh Thân không?
- Có chị ạ. Em đã tìm ra và chụp hình để
làm hồ sơ. Hy vọng anh được bên đó giúp
đỡ. Chỉ có điều địa chỉ hơi rắc rối. Anh
hiện được tá túc trong một góc sân của một
gia đình. Không biết nếu xin được, tiền gửi
về địa chỉ này, người ta có đưa cho anh
không.
- Chắc có chứ em. Tình cảnh anh ai mà
đành lòng!
- Chị ơi, mãnh lực đồng tiền lớn lắm. Ở
đây giết người vì chút tiền không hiếm đâu
ạ.
Mỵ Khanh nói:
- Bần cùng sinh đạo tặc phải không em.
Bây giờ thế này. Chị đưa số tiền chị nói
hôm qua cho em. Em cứ tự nhiên giúp ai
thì giúp. Khi nào rảnh em đưa chị đi thăm
vài anh ở gần đây. Chị sẽ giúp thêm em
nhé.
Kim Ngân vui vẻ:
- Được chị ạ. Ngày mai nếu chị rảnh, em
đưa chị đi thăm anh Vũ Tuân. Anh ở
gần nhà thương Thống Nhất. Là nhà
thương Vì Dân cũ đó chị. Anh này bị
thương nằm một chỗ từ tháng hai năm
1977. Nửa người anh, từ thắt lưng trở
xuống không còn cảm giác. Anh nằm một
chỗ với chiếc ống nhựa nối bàng quang
với một túi ny lông chứa nước tiểu. Đã hơn
ba mươi năm như thế. Tuy nhiên tinh thần
anh rất vững. Anh sáng tác thơ, làm PPS…
gửi lên mạng khắp thế giới. Ngày mai chị
đến thăm chắc anh mừng lắm. Mấy khi có
người từ ngoại quốc về thăm.
Mỵ Khanh vui vẻ:
- Vậy ngày mai chị em mình hẹn gặp nhau
trước cửa bệnh viện Thống Nhất nhé. À,
Kim Ngân thấy anh ấy cần gì để chị mua
mang đến?
- Anh Tuân nằm một chỗ nên cần hai loại
thuốc viên làm từ nguyên liệu thiên nhiên.
Viên gấc và viên tảo. Theo em biết, viên
tảo là một dạng rong biển giúp anh đi cầu
thông. Anh Tuân nằm một chỗ nên ruột
làm việc yếu lắm. Anh cần uống loại này
hằng ngày.
- Chị sẽ biếu thêm cho vợ anh ấy một chai
dầu gió xanh. Chị thấy bên này rất chuộng
dầu gió xanh.
Giọng Kim Ngân bỗng ngậm ngùi:
- Tội nghiệp chị Cúc. Tiếng là lấy chồng
chứ thật ra vì thương hoàn cảnh của anh
Tuân mà chị ấy về ở chung để săn sóc cho
anh ấy, chứ bại liệt như anh Tuân, chị Cúc
còn trông mong gì nữa? Em nghe nói mấy
hôm nay chị ấy về quê thăm mẹ bệnh. Nhà
chỉ có đứa cháu trông nom anh Tuân.
Ngày mai mười giờ chị nhé.
Kim Ngân đi rồi, Mỵ Khanh bỗng thấy
bâng khuâng. Vũ Tuân! Cái tên này gợi
cho nàng một trời kỷ niệm. Của thời con
gái. Vũ Tuân là mối tình đầu của Mỵ
Khanh. Hai người gặp nhau trong một
buổi chiều mưa. Sài Gòn mưa tháng sáu.
Năm bảy tư, Mỵ Khanh đang học Văn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 69
Khoa năm thứ nhất. Hôm đó nàng cần mua
cuốn sách nên ghé nhà sách Khai Trí. Hai
bàn tay cùng đưa tới một lượt, cầm cùng
cuốn sách. Một cách bất ngờ. Một bàn tay
với những ngón thuôn dài trắng nuột nà và
một bàn tay gân guốc phong sương. Mỵ
Khanh giật mình rụt tay lại, nhìn qua bên
cạnh và bắt gặp một cặp mắt sáng rực đang
nhìn nàng. Nụ cười lộ hàm răng trắng đều
trên khuôn mặt rám nắng của chàng trai:
- Xin lỗi cô. Tôi thật vô ý!
Mỵ Khanh ngượng ngùng:
- Dạ không có chi. Hôm khác tôi mua cũng
được.
- Hình như cô cần cuốn sách để học phải
không? Cô lấy đi. Tôi mua chỉ để đọc thôi.
Không có cuốn này thì cuốn khác.
Mỵ Khanh ngạc nhiên:
- Sao ông biết tôi mua để học?
Chàng cười ranh mãnh:
- Chiếc cặp của cô nói cho tôi biết đấy.
Mỵ Khanh đỏ hồng đôi má:
- Tôi… tôi…
Chàng nhìn sâu vào mắt người con gái
xinh thật xinh. Trong tà áo dài lụa đơn sơ
màu thiên thanh, mái tóc dài óng ả, nổi bật
đôi mắt to mơ màng trên khuôn mặt bầu
bĩnh chưa mất hết vẻ trẻ thơ. Chàng bỗng
mỉm cười, đôi mắt nhìn nàng trở nên nồng
ấm:
- Đợi tôi một tí nhé. Nhớ đừng đi trước khi
tôi trở lại đấy.
Không đợi Mỵ Khanh trả lời, chàng cầm
cuốn sách đi nhanh lại quầy trả tiền. Ít phút
sau trở lại, đưa túi xách cho Mỵ Khanh:
- Cầm đi cô bé. Cố học cho thật giỏi nhé.
Hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp
lại. Xin chào.
Chàng quay gót và Mỵ Khanh đứng đó
như trời trồng, ngẩn ngơ với cuốn sách
trên tay. Không thốt được nửa lời. Trời ơi,
cô bé kêu thầm, có chuyện này thật sao?
Mình sẽ gặp lại chàng một ngày nào đó?
Mỵ Khanh lắc đầu, chớp chớp cặp mắt để
trấn tỉnh. Người đâu mà lạ quá, không
giống bất cứ người con trai nào nàng quen
trước đây. Rồi cô bé cũng mỉm cười, cặp
mắt trở nên mơ màng và trái tim non bỗng
đập những nhịp bất thường.
Mỵ Khanh còn đứng đó thì chàng bỗng lại
hiện ra, bằng xương bằng thịt trước mắt,
cười cười:
- Ông Trời không muốn tôi xa cô bé rồi..
Ngoài kia đang mưa to. Tôi lại không đem
theo áo mưa. Chúng ta tiếp tục trò chuyện
trong khi chờ cơn mưa dứt hạt nhé. Tôi tên
Tuân. Còn cô bé?
Mỵ Khanh cắn môi, ngập ngừng vài giây
rồi quyết định:
- Tôi tên Mỵ Khanh!
Tuân kêu lên, giọng vừa ngạc nhiên vừa
thú vị và đầy ngưỡng mộ:
- Mỵ Khanh. Tên đẹp quá và thật hợp với
cô bé.
Mỵ Khanh mím môi bất mãn. Dám gọi
người ta là cô bé. Có lẽ đoán được tâm
trạng người con gái trước mặt, Tuân mỉm
cười:
- Xin lỗi… Mỵ Khanh. (Ừ nhỉ, tên đẹp như
thế không gọi thì… phí quá. Chàng nghĩ
thầm). Tôi là lính trong binh chủng Biệt
Động Quân. Tôi được nghỉ phép ít hôm
nên mới có mặt nơi này. Có lẽ hôm nay là
ngày may mắn của tôi, vì được làm quen
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 70
với một người con gái… xinh nhất thủ đô.
Mỵ Khanh cau mày, trách móc:
- Ông nói xạo! Tôi rất tầm thường…
Tuân cười xòa:
- Không nhất thì nhì vậy nhé. Nhưng thật
tình đối với tôi, cô bé là người xinh nhất.
Tuy ngoài miệng phản đối, nhưng trong
thâm tâm Mỵ Khanh thấy vui vui. Cô gái
nào không vui khi được khen đẹp?
Thế là nhờ cơn mưa mùa hạ mà họ quen
nhau, rồi yêu nhau. Những buồn vui, giận
hờn, nhớ nhung nối tiếp. Tuân miệt mài
với chiến trận và Mỵ Khanh vẫn cắp sách
đến trường. Họ dự định khi nàng ra trường
thì cưới nhau. Cả một tương lai ngọt ngào
trước mặt. Nhưng Tháng Tư Bảy Lăm đã
khiến họ chia lìa vĩnh viễn. Mỵ Khanh
theo gia đình xuống tàu Đại Hàn ra khơi,
trong khi đó Tuân đang kẹt ở miền Tây…
***
Hôm sau với tâm trạng bồn chồn, Mỵ
Khanh đến nơi hẹn với Kim Ngân. Hai chị
em đi vào con hẻm khá rộng. Kim Ngân
bảo cô đến thăm Vũ Tuân hầu như hàng
tuần, để mang hồ sơ của các thương phế
binh đến nhờ Tuân chuyển bằng e-mail ra
ngoại quốc. Vũ Tuân dù nằm một chỗ
nhưng với tinh thần quyết đấu, anh đã mầy
mò học xử dụng máy vi tính thật thành
thạo và giúp các đồng đội cũ với tất cả tấm
lòng và nhiệt tâm của anh. Nhìn thấy con
hẻm rộng với nhà cửa khang trang. Những
ngôi nhà nhiều tầng khiến Mỵ Khanh
không khỏi thắc mắc. Nếu Tuân nghèo sao
lại có thể ở trong khu nhà cao cửa rộng
này. Nhưng chưa kịp hỏi thì Kim Ngân
nói:
- Mình đến rồi chị. Nhà anh Tuân bên kia.
Thì ra, chen vào giữa những căn nhà lầu
đẹp đẽ còn có một căn nhà nho nhỏ, mái
tôn. Kim Ngân tự động mở cửa mời Mỵ
Khanh vào. Gian trước trống trơn, có một
chiếc xe máy, nghe nói của cháu vợ Tuân.
Vì cô ấy đi vắng nên nhờ cháu đến trông
dùm. Nhưng hình như anh ta đã đi đâu đó.
Kim Ngân và Mỵ Khanh đi vào căn phòng
phía sau. Kim Ngân nói to:
- Anh Tuân ơi có khách phương xa đến
thăm.
Trong ánh sáng lờ mờ hắt vào từ khuôn
cửa sổ, Mỵ Khanh thấy hình dáng một
người đàn ông rất gầy nằm trên chiếc
giường nhỏ, nửa thân dưới đắp chiếc chăn
mỏng. Thấy khách vào, ông với tay lên sợi
giây phía đầu giường kéo chiếc mành cho
căn buồng sáng hơn. Mỵ Khanh tiến đến
bên giường, nghiêng đầu nhìn. Tim nàng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 71
nhói đau. Cũng cặp mắt ấy, tuy kém tinh
anh, nhưng vẫn ánh lên nét thông minh.
Vầng trán rộng, mái tóc bây giờ muối
nhiều hơn tiêu. Đúng là Tuân của nàng
ngày xưa. Chỉ khác là tấm hình hài quá
tiều tụy. Mỵ Khanh không nhịn được,
nghẹn ngào:
- Anh Tuân!
Người đàn ông giật mình, chăm chú nhìn,
bỗng kêu lên thảng thốt:
- Mỵ Khanh! Phải Mỵ Khanh không?
Sự bất ngờ khiến chàng đưa cánh tay về
phía Mỵ Khanh một cách vô thức. Như
một người sắp chết đuối định với một
chiếc phao. Mỵ Khanh ngồi thụp xuống,
cầm bàn tay gầy gò của chàng, thổn thức:
- Sao anh ra tới nông nỗi này? Sau khi sang
Canada, em đã hỏi biết bao nhiêu người
quen, nhưng không ai biết tin tức gì của
anh cả. Em nghĩ là anh đã…
- Đã chết phải không? Tuân cười buồn,
tiếp lời Mỵ Khanh. Anh cũng tưởng mình
chết biết bao nhiêu lần. Nhưng trời Phật
vẫn còn thương nên anh mới sống tới ngày
hôm nay. Coi kìa, đừng khóc. Sưng cặp
mắt đẹp bây giờ. Anh không ngờ mình còn
được may mắn gặp lại em.
Mỵ Khanh lau những giọt lệ đang lăn dài
trên má:
- Em cũng vậy. Khi nghe Kim Ngân nói
tên anh, em đã hy vọng là anh thật.
Kim Ngân từ trong bếp bước ra với khay
nước mời khách. Thấy Mỵ Khanh đang
cầm tay Tuân, cặp mắt đỏ hoe, vội hỏi:
- Ủa, hai anh chị quen nhau à?
Tuân cười:
- Mỵ Khanh và anh quen nhau trước bảy
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 72
lăm.
Kim Ngân cười ranh mãnh:
- Thì ra là cố nhân!
Mỵ Khanh phân trần:
- Năm bảy lăm chị theo gia đình rời Việt
Nam bằng tàu Đại Hàn. Sau đó sang định
cư Canada và mất tin tức anh Tuân từ đó
đến nay. Thật bất ngờ cho chị khi gặp lại
anh trong tình cảnh này! Thú thật chị vừa
mừng cũng vừa đau lòng quá em ạ!
Nói xong Mỵ Khanh lại rơm rớm nước
mắt. Tay nàng vẫn nắm chặt bàn tay gầy
gò của Tuân. Chàng để yên và nhìn Mỵ
Khanh với cặp mắt thật thiết tha:
- Anh cám ơn trời Phật đã run rủi cho em
đến với anh hôm nay. Biết bao lần anh
từng mơ thấy em. Được nắm tay em một
lần như hôm nay là anh mãn nguyện. Anh
nghĩ là em đã có một gia đình rất hạnh
phúc phải không? Anh ấy thế nào?
Mỵ Khanh gật đầu:
- Nam là một người chồng tốt. Anh ấy rất
yêu em. Chúng em có hai con. Một trai
một gái. Khi em sang Canada, lúc đầu vừa
đi học vừa đi làm. Cày cục mãi cũng lấy
được mảnh bằng kế toán. Em đi làm cho
một công ty kế toán lớn và nơi đây em đã
gặp Nam. Em lập gia đình suýt soát ba
mươi năm rồi.
- Thế mà vẫn trẻ trung và xinh đẹp như
ngày xưa. Chỉ hơi đẫy người ra một tí.
Nhưng càng đẹp!
- Anh không thay đổi tí nào. Vẫn miệng
lưỡi ngọt như mật!
Tuân cười, nheo mắt:
- Vì thế ngày xưa mới có một cô bé tên Mỵ
Khanh chịu yêu anh lính quèn phải không?
(Và Tuân đổi giọng nghiêm nghị) Anh chỉ
đùa cho vui thôi, em đừng hiểu lầm nhé.
Thân phận anh ngày hôm nay chỉ là một
kẻ tật nguyền, một người vô dụng.
Mỵ Khanh vội cướp lời:
- Không, anh đừng nói thế. Tuy không còn
nguyên vẹn như xưa, nhưng dù nằm một
chỗ, anh vẫn giúp được những bạn bè hoàn
cảnh bi đát hơn anh kia mà. Em nghe Kim
Ngân kể, có những anh vừa mất cả hai
chân, vừa mù cả hai mắt, còn đeo thêm
bệnh tâm thần. Anh như thế này phải kể là
còn may mắn anh ạ.
Tuân kể, giọng uất nghẹn:
- Em chưa biết anh đã sống như thế nào
sau ngày mất nước đâu. Những tù cải tạo
như anh, có bị thương nặng cỡ nào cũng bị
họ xem như đống giẻ rách. Anh đã từng
chết đi sống lại hàng trăm lần. Bị thương
bầm dập từ thắt lưng trở xuống, nằm một
chỗ đến nỗi lở loét cả người, máu mủ bê
bết. Mà thôi, nhắc lại làm gì cho mất vui
phải không em. Có ai ngờ chúng mình còn
có cuộc hội ngộ ngày hôm nay.
Mỵ Khanh đau xót, nước mắt rưng rưng:
- Kể cho em nghe hoàn cảnh của anh sau
ngày em ra đi...
Tuân mỉm cười, giọng đầy yêu thương:
- Vẫn mau nước mắt như xưa! Ừ, để anh
kể lại em nghe khúc phim dĩ vãng đầy
thương đau của anh…
***
… Sau ngày Quân đội miền Nam tan đàn
rã nghé, Tuân đã luồn lách từ miền Tây về
Sài Gòn và tìm đến nhà người yêu thì cửa
đã đóng im ỉm. Hàng xóm cho biết cả gia
đình đã ra đi hôm hăm tám tháng tư. Với
cõi lòng tan nát, chàng về nhà trên khu
Lăng Cha Cả tá túc với mẹ. Khi ra trình
diện chàng bị bắt đi học tập cải tạo như tất
cả quân cán chính của chế độ Việt Nam
Cộng Hòa. Trong một lần đi gỡ mìn, trái
mìn nổ tung khiến thân thể chàng bị
thương trầm trọng. Hai người khác bị tử
vong. Trong những ngày chiến đấu với tử
thần, sự đau đớn khốc liệt khiến Tuân có
ý nghĩ chẳng thà chết quách như hai người
kia mà khỏe thân hơn. Nhưng rồi tất cả
cũng qua đi. Giòng sông đời vẫn lạnh lùng
trôi. Cuốn theo những mảnh đời bèo bọt.
Không thể làm gì để thay đổi, chàng đành
chấp nhận sống những tháng ngày khổ ải,
chán chường. Cho qua ngày đoạn tháng.
Cho hết một kiếp điêu linh. Mỗi khi hồi
tưởng lại chàng không khỏi rùng mình.
Dưới chế độ này, thân phận người Thương
phế binh của chế độ cũ như chàng không
hơn một con vật. Họ sống lây lất khắp
hang cùng ngõ hẻm, nhờ vào lòng từ tâm
của ông đi qua bà đi lại. Chàng không hề
có ý định hỏi thăm bất cứ ai để tìm lại Mỵ
Khanh, khi nhìn lại cơ thể tật nguyền của
mình. Tìm làm gì? Yêu là hy sinh. Là
mong cho người yêu được hạnh phúc. Vì
thế chàng phải vĩnh viễn biến ra khỏi cuộc
đời Mỵ Khanh.
Những giọt nước mắt nóng hổi rớt xuống
bàn tay gầy guộc khiến Tuân choàng tỉnh.
Chàng nhìn người thiếu phụ đang nắm bàn
tay xương xẩu của mình, những giọt nước
mắt vẫn tiếp tục rơi khiến chàng xót xa.
Tuân cố cười thật tươi:
- Nhưng hôm nay anh vui lắm. Được gặp
lại em, dù một lần là anh mãn nguyện.
Càng vui hơn khi biết em hạnh phúc với
chồng con. Mỵ Khanh, chuyện chúng
mình đã là dĩ vãng. Em yên tâm, anh
không hề đòi hỏi em bất cứ chuyện gì. Cứ
xem nhau như bạn bè thân thiết và quên đi
những ngày hoa mộng xưa.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 73
Giọng Mỵ Khanh nghẹn ngào:
- Em cám ơn anh. Em cũng hiểu, những gì
đã qua không thể quay lại. Vậy trong thời
gian em còn ở đây, anh cho phép thỉnh
thoảng em đến thăm anh. Về bên kia, em
sẽ thường xuyên gửi E-mail. Nhưng
không biết có phiền lòng chị ấy hay
không?
Tuân cười, giọng bỗng reo vui:
- Mỵ Khanh đừng lo. Cúc vì cám cảnh mà
chịu lấy anh. Em xem, anh đem lại gì cho
cô ấy? Cúc rất dễ thương, có tấm lòng Bồ
Tát. Suốt đời anh chỉ biết cắn cỏ ngậm
vành, tri ân cô ấy. Nếu không chê, Tết này
em đến ăn một cái Tết nghèo với gia đình
anh.
Mỵ Khanh nhìn Tuân, ánh mắt đầy trách
móc:
- Phải nói là em được hân hạnh đến ăn Tết
với anh chị. Anh yên tâm, em sẽ đến. Đây
sẽ là cái Tết hết sức ý nghĩa đối với em.
Giọng Kim Ngân từ bếp vọng lên:
- Anh chị tâm sự xong chưa? Em đã hâm
xong bánh cuốn rồi nè. Chúng ta ăn trưa
nhé. Để mừng cuộc hội ngộ của
anh Tuân và chị Mỵ Khanh.
Không ngờ hai anh chị đã có
một cuộc tình thơ mộng. Em rất
ngưỡng mộ.
Tuân mắng yêu:
- Cô đáng đánh đòn lắm nhé.
Không chịu báo cho anh biết
trước. Chỉ nói là có người từ
phương xa về thăm.
Kim Ngân cười khanh khách:
- Em muốn dành cho anh một
bất ngờ. Mà bất ngờ thật phải không anh?
Không cám ơn mà còn mắng em. Thiệt
tình!
Tuân và Mỵ Khanh nhìn nhau mỉm cười.
Họ thấy không cần nói gì nữa. Mùa Xuân
đang bước đến. Thật rộn ràng và ngọt
ngào.
Tiểu Thu
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 74
Vi khuẩn đến thăm Hoàng Hạc Lâu
Thương thay Hồ Bắc ở bên Tàu
Hoang tàn Vũ Hán người rơi rụng
Đổ nát Bắc Kinh quạ bám bâu
Thôi Hiệu câu thơ còn đậm nét
Gác vàng dấu tích chửa phai màu
Tập Bình ước vọng thâu toàn vũ
Vi khuẩn ngập tràn mộng úa mau
Văn Ngọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 75
C
hiều nay em chẳng ghé thăm chơi
ảm nhận hư vô đến với đời
Ánh nắng ngoài hiên dần lịm tắt
Giọt sương trước ngõ vội tuôn rơi
Dấu chân sỏi đá còn ghi nhớ
Dáng ngọc tơ phong mãi đón mời
Ai nỡ vô tình chôn kỷ niệm
Cho lòng hiu quạnh ngắm chiều rơi
Văn Ngọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 76
T
rời đông giá lạnh buốt xương
Bữa cơm chiều đợi thiu ươn trong nồi
Bồn chồn hết đứng lại ngồi
Người yêu lầm hiểu lòng tôi rối bời
Ngày mai bữa tiệc định mời
Người yêu hờn giận xa vời ấp e
Mối tình phủ nhớ thương che
Đã cùng nhau hứa không khoe với đời
Dẫu tin yêu mãi không phai
Nỗi buồn ray rứt trải dài không gian
Mong cho giấc ngủ được an
Không suy nghĩ quẩn võ vàng xác thân
Thương nhau gắn bó muốn gần
Thâu canh chờ đợi bao lần nến chong
Làm sao ai hiểu mà mong
Ôm người yêu dấu vào lòng cùng ta
Văn Ngọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 77
Reng… reng…
Tiếng chuông điện thoại quen thuộc vang
lên trong căn phòng nhỏ, bà Hậu từ từ đẩy
chiếc xe lăn ra sát cửa sổ, nhìn ra ngoài
trời âm u báo hiệu cơn mưa sắp đến. Bên
kia đường, Thịnh, con trai bà ra khỏi xe,
ngước nhìn lên vẫy tay chào Mẹ như mọi
ngày.
Từ hơn một tháng nay, trong khu nhà
dưỡng lão, không còn ai được tự do vào
thăm viếng như trước nữa. Thịnh vẫn hàng
ngày lái xe đến, đứng dưới đường, có lúc
dẫn theo 2 đứa con nhỏ đến chào bà nội.
Nhiều hôm trời lạnh, thương cháu, bà phải
nén lòng đẩy chiếc xe lăn, quay trở vào
phòng để con yên tâm ra về, dù lòng bà chỉ
muốn kéo dài giây phút được nhìn hai bàn
tay bé tí xíu giơ lên vẫy vẫy. Nước mắt bà
ứa ra.
Từ sau ngày bà bị stroke, không còn tự lo
cho mình được, nghĩ đến con trai, vừa phải
đi làm lo cho cả gia đình, vừa phải tự chăm
sóc cho 2 đứa con còn nhỏ, bà đã đề nghị
với con cho bà vào nhà dưỡng lão, có bác
sỹ, y tá săn sóc. Thịnh cũng không còn lựa
chọn nào khác trong hoàn cảnh đơn thân
nuôi con. Bà yên lòng với cuộc sống mới
trong viện dưỡng lão. Những ngày gần
đây, bà Hậu đã chứng kiến không ít cảnh
các ông bà bạn cao niên trong cư xá được
xe cứu thương đến đưa đi, không ai tiễn
chân, lòng bà đau xót, nhưng không bao
giờ bà ngờ được có ngày đến phiên bà
cũng lại nằm trên xe cứu thương, đơn độc
để vào bệnh viện. Tiếng còi xe hụ lên như
tiếng tử thần đến gọi, làm bà hoang mang,
hoảng loạn.
Một tuần lễ đầu, Thịnh còn được phép vào
bệnh viện thăm mẹ, mỗi lần chỉ được 15
phút, nhưng rồi sau đó, lệnh cấm càng
ngày càng nghiêm ngặt, bà chỉ được phép
mỗi ngày được hai cô y tá dìu đến bên cửa
sổ, nhìn xuống bên kia đường, nói chuyện
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 78
với con qua ánh mắt, qua hình ảnh con trai
mờ nhạt.
Hai hôm nay thì bà không ngồi dậy được
nữa, được chuyển sang khu "yên nghỉ"
dành cho những bệnh nhân đến thời kỳ
cuối. Tuy bà không hiểu gì nhiều, nhưng
cũng đoán biết phần nào trong những lúc
nửa mê nửa tỉnh, cổ họng khô rát, đau ran,
đầu nóng bừng bừng. Cô y tá mỗi ngày
cầm chiếc điện thoại để gần cho bà nghe
tiếng con, và tiếng hai đứa cháu nội bập bẹ
"bà nội, sao Nội lâu về?". Bà chỉ mong gọi
tiếng "con" thân thương như những ngày
mẹ con, bà cháu còn đoàn tụ một nhà,
nhưng bà đã không nói được nữa rồi. Đôi
môi mấp máy, bà gật gật đầu cám ơn cô y
tá.
Đêm nay, mưa gió lại về, tiếng mưa gõ đều
trên cửa kính căn phòng bệnh. Bà miên
man trong cơn mê, gọi thầm trong mơ
"Ông ơi! Chờ tôi…" đầu óc bà chợt tỉnh
táo vô chừng, bà nhớ lại những bài pháp
thoại đã được nghe Thầy giảng nên cố
niệm "Nam Mô A-Di-Đà Phật" 10 lần,
nhất tâm bất loạn để được Ngài đón về cõi
tịnh độ. Nhưng làm sao được, chỉ vừa
niệm được chữ "Nam Mô…" thì tâm trí bà
đã lãng đãng mơ màng trở về căn nhà nhỏ,
có giàn mướp sau hè và những cánh hoa
vàng mong manh đong đưa trong gió; đến
căn bếp nhỏ của ngôi nhà, nơi bà đã sống
với con trai trong những năm cuối đời; đến
tiếng ê a bập bẹ tiếng Việt của hai đứa
cháu; thì còn mong gì đến chuyện "nhất
tâm bất loạn"? Như thế bà sẽ đi về đâu
đây?
Hai giọt nước mắt bà lăn xuống chiếc gối
trắng, bà ú ớ gọi "con" nhưng tiếng kêu
không thoát ra cổ họng. Hai cô y tá nghe
tiếng động chạy vội vào, nhìn vào những
biểu đồ chằng chịt bên giường bệnh, đưa
mắt nhìn nhau lắc đầu.
Bà Hậu đưa tay quờ quạng trong khoảng
không, kìa con, kìa cháu đang ở trước mặt
bà, bà chỉ muốn được nắm tay chúng, bất
chợt tiếng nói thoát ra khỏi miệng bà một
tiếng "con!" thống khổ. Hai cô y tá kéo
ghế đến ngồi hai bên giường, cầm tay bà :
- Con bà không được phép vào đây với bà.
Nhưng bà không cô đơn đâu. Chúng tôi sẽ
ở đây với bà cho đến phút cuối.
Bà không hiểu gì, chỉ thấy khuôn mặt con
trai ẩn hiện trong mầu áo trắng, chỉ thấy
đôi bàn tay ấm áp truyền hơi nóng đến tay
bà. Ôi, bàn tay của hai đứa cháu thân
thương làm ấm cả lòng bà. Bà nhắm mắt
tận hưởng niềm hạnh phúc vô bờ vừa đến.
Rồi bà chợt thấy mình nhẹ bỗng, bay bổng
lên cao, bà nhìn thấy hết những gì xảy ra
bên dưới và chung quanh bà. Ôi! Đức Phật
Di Đà có đâu xa? Vẫn ẩn hiện đâu đây
dưới những mầu áo trắng. Bà cũng nhìn
thấy đức Quán Thế Âm, không phải là
một, mà là hai, cũng trong mầu áo trắng,
vẫn ngồi bên bà, vẫn ấp ủ đôi bàn tay gầy
guộc của bà trong lúc chia ly. Và lạ thay,
bà cũng thấy ngoài trời mưa lất phất, bên
kia đường, chiếc xe mầu xanh quen thuộc
và hình dáng thân thương của đứa con yêu,
mắt ngước nhìn lên chiếc cửa sổ bệnh viện
đang nghẹn ngào gọi "Mẹ ơi!"
Hải Phong
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 79
Biển xanh gợi nhớ tình xưa
Bên nhau thuở ấy nghe mưa gọi thầm
Giờ đây chiếc bóng hoài mong
Sầu trong biển nhớ nỗi lòng bơ vơ
Nhớ em viết mấy vần thơ
Người đi, kẻ ở ngẩn ngơ u sầu
Thương ai nuối tiếc tình đầu
Còn chi đâu nữa vạn sầu nhớ nhung
Montréal 15/11/2019
Thảo Linh Phạm Xuân Hiền
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thảo Linh Phạm Xuân Hiền 80
Quê hương tang tóc đôi bờ
Người chia đôi ngả ngóng chờ khôn nguôi
Bao năm giông bão dập vùi
Ngày này, năm ấy ngậm ngùi ly hương
Quê tôi sao lắm đau thương
Vì ai nông nỗi đôi đường cách xa
Ai đi không nhớ quê nhà
Hẹn ngày dựng lại sơn hà tự do
Montréal 15/04/2020
Thảo Linh Phạm Xuân Hiền
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thảo Linh Phạm Xuân Hiền 81
Lần đầu từ Cao Nguyên về thành đô,
Phương phải lấy máy bay quân sự về
kịp dự khóa học cấp tốc mã số do phái
đoàn Y Tế Mỹ tổ chức cho phần đông
nữ dược sỹ khóa 1966 đầu tiên bị trưng
dụng theo bắt thăm, cần phục vụ cho
các trung tâm y tế toàn khoa các tỉnh xa
trong thời kỳ chiến tranh giữa hai miền
Nam Bắc Việt Nam. Chuyến bay quá
xóc và nguy hiểm. Một động cơ bị trục
trặc với sức gió quá mạnh của bão, hai
cánh máy bay nghiêng qua nghiêng lại,
trồi lên trụt xuống, mất thăng bằng, là
là gần chân núi. Phương nắm chặt tay
ghế, sợ hãi nhìn qua cửa. Bầu trời mây
xám giăng đầy, sương khói mịt mù,
rừng rậm hoang vắng. Những người
lính Việt cộng có thể núp trong những
bụi cây to rậm rạp chằng chịt, chĩa súng
AK bắn lên lúc nào không biết! Nàng
chỉ biết nhắm mắt, đọc kinh để qua cơn
sợ hãi, tim đâp mạnh, nhịp thở dồn dập,
buồn ói không cầm được. Nhờ Thượng
đế che chở, nên máy bay đáp xuống sân
khó khăn lắm, nhưng rồi cũng an toàn.
Phương hoàn hồn khi ra khỏi sân bay,
đặt chân xuống đất liền. Phương lấy lại
bình tĩnh, hít thở mạnh, quá mừng vì
biết mình còn sống. Nàng đảo mắt nhìn
quang cảnh sống động xung quanh,
nhiều người chờ đợi, đón thân nhân từ
hải ngoại, đi ra vào sân bay tấp nập.
Khóa học kéo dài 2 giờ, một ông dược
sỹ Việt Nam đứng cạnh một ông người
Mỹ y phục quân nhân, chào các dược
sỹ phát biểu:
-Tôi rất hân hạnh gặp các cô dược sỹ trẻ
đẹp đến họp ở buổi học nầy.
Ông thầy người Mỹ vui nhộn, cố học
tiếng Việt nói lơ lớ, vui vẻ bắt tay từng
dược sỹ khi kết thúc buổi học ra về.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 82
Phương gặp các bạn dược sỹ cùng khóa
với bao nhiêu là chuyện thích thú tha hồ
kể lại, chọc phá, xem người nào đã có
người yêu chưa? Lúc đó Hoa vào, đảo
mắt tìm kiếm Phương không thấy. Từ
xa Ngân chạy lại, kéo tay nàng tới chỗ
Hoa đứng, cùng nhìn nhau thân mật dò
xét:
- Hoa sắp đám cưới rồi phải không?
Nghe tin lan truyền là anh chàng này
du học bên Pháp đẹp trai, cách cư xử có
vẻ nịnh đầm Tây phương lắm, vừa về
nước đã bị cô gái nầy đớp hồn rồi! Hoa
có vẻ tươi mát yêu đời hơn lúc học thi
nhiều. Tốt nghiệp vẻ vang, tình yêu tiếp
sức cho đời, Hoa rất lạc quan ở tương
lai đầy hứa hẹn.
Ngân bảo:
- Nhà sửa thơ dí dỏm kể chuyện tiếu,
pha trò duyên dáng, không bao giờ đau
khổ vì tình! Anh nào lạc hồn thơ chọc
nàng, không khéo thì bị lời sửa thơ trả
đũa như búa đập vào đầu đau lắm.
Ba người bạn thân tình cười vui đùa
sung sướng. Hoa ôm chầm lấy Phương
và Ngân báo tin mừng:
- Hẹn gặp lại ở lễ thành hôn nhé!
Các bạn ở phòng họp xôn xao lên tiếng
hỏi Hoa:
- Ai sẽ được mời ăn cưới, có mời hết
bạn cùng khóa không?
Sau đó Hoa từ giã Ngân, đi ra ngoài sân
cùng Phương nói chuyện bí mật:
- Có người bạn của anh Dũng, tên
Quang, kỹ sư về điện lực muốn tìm ý
trung nhân. Với điều kiện là người đẹp,
thùy mị không khó tánh, phải nói và
hiểu tiếng Pháp. Hoa liền nghĩ đến
Phương là người bạn thân mến của
mình. Hoa tin là anh sẽ OK vô điều kiện
và chạy theo đuôi người đẹp khó tánh,
đuổi đi đâu cũng không được! Mình hỏi
thật Phương có thần tượng nào trong
tim chưa?
Hoa có diễm phúc gặp Dũng, nhưng có
tìm hiểu rõ người yêu chưa? Phương thì
phải đi làm xa Saigon, thời gian đến 2
năm thì chưa biết Quang có thích tìm
việc ở tỉnh lẻ không? Mà thôi Phương
chưa quen biết, để tìm hiểu anh ấy, chỉ
còn 4 ngày Phương phải trở lại Cao
nguyên gió lạnh mưa bùn xa lắm ngại
quá! Mình có lẽ cao số về tình duyên,
thì dây dưa thêm phiền lòng.
Ngày mốt chiều 6 giờ ở trên thuyền Mỹ
Cảnh ngay bến tàu sông Sàigòn, Hoa
mời Phương đi dùng cơm tối với Dũng
và Quang, để xem tướng mạo và cách
cư xử anh chàng nầy ra sao. Biết đâu
Phương sẽ bị “coup de foudre”.
Và mọi chuyện tiếp theo sẽ được như ý!
Thôi Hoa không muốn Dũng phãi chờ
ở ngoài xe lâu quá, quyết định như vậy
đừng quên lỡ hẹn nhé!
Trở về nhà vào buổi chiều quá mệt, chỉ
muốn ăn nhanh xong buổi cơm tối.
Nàng trò chuyện hỏi han sức khỏe ba
và mọi người, tươi cười để trả lời về
cách sống khi xa ba và anh chị. Phương
vào phòng riêng, không khí hơi lạnh vì
xa vắng lâu ngày, mọi thứ vẫn như cũ
không thay đổi. Chợt nhìn lên tường
thấy các bức ảnh chụp cùng các bạn
dược sỹ khi nhận bằng hành nghề, tấm
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 83
bằng dược sỹ chưa đóng khung. Ngày
mai nàng sẽ đi tìm mua một khung hình
mới thật đẹp.
Sáng hôm sau nàng tỉnh dậy bởi tiếng
chim sẻ hót vang trên cành hoa sứ màu
trắng sữa nở trước nhà, hương thơm
ngào ngạt tỏa rộng khắp nơi đập vào
mũi làm nàng tỉnh hẳn người. Nàng vội
mở rộng cửa sổ, đón luồng không khí
nóng ấm lùa vào phòng, cố hít thở một
hơi dài thoải mái. Giương mắt nhìn ra
bầu trời trong xanh, những đám mây
trắng bềnh bồng, pha lẫn với những
đám mây hồng phơn phớt nhẹ trôi. Sự
nóng bỏng đầu hè làm nàng toát mồ hôi.
Vài tia nắng bình minh chiếu sáng qua
những giọt sương đêm long lanh còn
đọng trên lá, nhẩy múa xuyên qua cành
cây kẽ lá, chợt rơi trên mái tóc đen
huyền xõa ngang vai. Phương vội đi
tắm lấy lại sự tươi mát cho cơ thể, tâm
hồn nàng cũng ướt đẫm niềm vui. Sau
đó nàng tìm chọn cho mình một chiếc
áo dài màu xanh thu thủy, thêu cành
trúc thủy mạc trang nhã trên tà áo, làm
nổi bật thân hình ẻo lả. Nàng chọn đôi
giầy và ví màu xanh dương đậm khiêm
nhường hòa hợp với màu áo. Với đôi
mắt thoáng buồn, nhưng đầy ý chí xây
dựng cho mình một tương lai vững
chắc. Nàng bới tóc cao lên và cài lên
chiếc nơ nhung đen rất thích hợp với
khuôn mặt đầy đặn với khí hậu nóng
bức của mùa hè nơi đây. Đã mười phút
rồi, Phương đứng trước gương ngắm
bóng dáng mình, vuốt lại tà áo dài, nàng
tỏ ra hài lòng với lối trang phục hôm
nay.
Mình sẽ đi dạo phố sắm sửa hay đi thăm
bạn đây? Không cần biết! Uyên
Phương đi vào phòng mà ba nàng
thường làm việc hằng ngày. Nàng hỏi
han ba, dặn dò sức khỏe nũng nịu nhìn
ba thương mến bảo:
- Ba nên uống thuốc bổ mỗi ngày, chai
thuốc mà con đã mua cho ba hôm trước,
ba của con đã già hơn vì làm việc quá
nhiều.
Ba hơi cảm động bảo:
- Con nên lấy 500 $ ba cho con, rồi nhét
vào ví tay để cho con gái mua sắm linh
tinh.
Lúc đó cử chỉ ấy làm cho Phương sực
nhớ mình đã 25 tuổi! đã tự lập rồi! Tiền
lương hằng tháng, nàng chưa biết tiêu
xài và tiết kiệm ra sao đây? Nàng hôn
tay ba cảm ơn và bảo:
- Con gái ba giàu lắm, con sẽ mua
những gì ba thích nhất để làm quà cho
ba đây?
Ánh mắt ba già trìu mến nhìn con sung
sướng, hãnh diện có được một cô con
gái biết tự lo cho mình một tương lai
vững vàng. Hai cha con nhìn nhau cười
vui, cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và
mãn nguyện.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 84
Uyên Phương chào ba ra cửa, tiếng ve
sầu lảng vảng đâu đây. Những cành hoa
phượng vỹ màu fushia đỏ rực hồng
thắm, nhuộm cả một góc trời. Uyên
Phương như lạc vào thế giới thi sỹ
mộng mơ. Nàng cảm thấy bầu trời
nhuộm màu hồng tình yêu. Nàng muốn
yêu và được yêu tha thiết. Nàng tản bộ
trên đường Nguyễn Huệ và Tự Do giữa
đám người thanh
niên, thiếu nữ, cười
nói xôn xao náo
nhiệt. Những tà áo
muôn màu tung bay
lượn trong gió ấm.
Những cặp uyên
ương yêu đời đi dạo
phố, dọc theo các
cửa hàng tráng lệ,
nhìn qua khung cửa
trưng bày đầy hàng
hóa thời trang đắt
tiền.
Nàng vui vẻ tung
tăng, rẽ qua ngả ba
đường Taberd và
góc Thống Nhất
hướng về Thánh
đường Đức Bà.
Nàng dừng trước
cửa bái gối, vào trong đi lên trước bàn
thờ Thánh Joseph bế Chúa Hài Nhi.
Phương đứng kế bên tuợng Đức Mẹ,
dâng bó hoa Lys màu trắng ngà trong
sạch, hương thơm bay phảng phất nơi
đây. Nàng cúi đầu thành kính đọc kinh
thật lâu, để tâm hồn được thanh thản.
Nàng tạ ơn Chúa đã che chở gia đình
được hòa thuận an lành vui mạnh trong
cuộc sống hiện tại. Phương bái gối trở
ra, tiếp tục trở lại đường Tự Do với một
nỗi buâng khuâng khó tả. Nàng đi
ngang qua một tòa nhà đồ sộ, một cao
ốc mới, Phương mải ngước lên nhìn
hàng chữ to nổi bật sáng lấp lánh từ xa.
Như một luồng điện giật, nàng chợt
quay người lại vì có tiếng chào hỏi:
- Phương về lúc
nào, sao không báo
tin cho bạn bè đến
thăm?
Nghe giọng nói trầm
ấm quen thuộc, nàng
nhận ra Tân với ánh
mắt đầy thiện cảm.
Trong lòng thấy
dâng lên niềm vui
khó tả, nàng hỏi:
- Tân làm việc ở đây
đã lâu chưa, anh có
khỏe không?
Phương về đi học và
được nghỉ phép thời
gian không lâu lắm.
Rất vui gặp anh
hôm nay, có rảnh
không?
- Phương ở đây, chờ Tân vào phòng thu
xếp với nhân viên vài việc. Anh cần
vắng mặt cả buổi trưa. Sau đó xin phép
cùng Phương vừa đi tản bộ xả hơi, vừa
vui vẻ chuyện trò cùng nhau, còn gì
bằng. Lâu lắm từ ngày Phương đi làm
xa, có thật nhớ bạn ở thành đô không
đó?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 85
- Làm sao quên được! Có những chiều
ngoài giờ làm hết việc, buồn chán quá!
Phương có những chiều cô đơn, ngồi
nhìn về phương trời xa xăm, muốn bỏ
nhiệm sở quay về thành đô. Để thả hồn
tưởng tượng mình đang đi dạo phố
Saigon vào những chiều nắng nhẹ, ăn
những món ngon, đi ciné cùng cô bạn
thân thiết, xem những phim tình lãng
mạng. Đời sống quá khô khan ở Pleiku,
không có gì để giải trí, thành phố đi
năm ba phút đã quay về chốn cũ. Các
anh Y Nha Dược ở đây lớn hơn Phương
khá nhiều tuổi, phần nhiều chưa lập gia
đình, các anh lo làm phòng mạch kiếm
nhiều tiền sau giờ làm việc ở Quân Y
viện, làm gì có giờ để họp bạn. Nhiều
anh có gia đình, thỉnh thoảng mời các
anh chưa lập gia đình và Phương đến
nhà dùng cơm chiều, thì đã là quí quá,
được an ủi lắm rồi. Trong những buổi
lễ trong đại tổ chức ở club Phượng
Hoàng, các nhân vật quan trọng của
tỉnh được mời. Không quên được mời
các bác sỹ quân nhân, bác sỹ Giám Đốc
Dân Y Viện và dược sỹ trưởng phòng.
Ông TrungTướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh
Quân đoàn 2 đa tình cùng Minh Hiếu,
nàng ca sỹ diễm kiều như một nàng tiên
xuất hiện, ra sàn nhảy khai mạc buổi lễ.
Ca khúc du dương bất hủ “lâu đài tình
ái đó, có trên trần gian …” trổi lên, các
anh bác sỹ Y Nha Dược được dịp trầm
trồ rửa mắt nhìn theo bước nhảy uyển
chuyển của nàng ca sỹ Minh
Hiếu.Tiếng nhạc như lôi cuốn thúc dục
mọi người phải gia nhập nhảy theo các
điệu nhạc mê ly vang lên...
Tân nghe Phương kể chuyện rất vui,
chú ý lúc nào cũng hòa đồng. Chàng có
dáng mạo trang nhã, hiền hòa, lịch
thiệp, hoạt bát, giúp đỡ và thông cảm
người khác. Đối với phái nữ Tân càng
tế nhị hơn, tôn trọng ý kiến, chia sẽ
quan niệm, rất lạc quan khi đối thoại.
Tư cách nầy là điểm nổi bật của Tân.
Chàng du học ở Mỹ về nước, được chọn
phục vụ mở mang cho nền kỹ thuật Việt
Nam còn thấp kém, chưa theo kịp các
nước Âu Mỹ tân tiến. Chánh phủ Việt
Nam cấp học bổng cho Tân du học ở
đại học kỹ sư MIT của Mỹ.
Phương và Tân tiếp tục đi bên cạnh
chuyện trò không dứt. Chàng ân cần vui
vẻ hiếu kỳ, muốn biết phương pháp làm
việc trong ngành Y Nha Dược, các kỹ
nghệ, kiến trúc nhà cửa, đời sống người
dân ở tỉnh Pleiku ra sao? Phương dè dặt
chưa biết đề tài đối thoại của mình nên
chỉ trả lời ngắn gọn. Nàng tự hỏi có nên
biết về đời sống của Tân những ngày
qua trong công việc nghề nghiệp, chức
vụ, tình cảm gia đình ra sao không? Tự
nhiên Phương nghĩ là không nên đi sâu
vào đời tư của Tân, mà chỉ hiếu kỳ
muốn biết đời sống sinh viên du học ở
Mỹ sau khi tốt nghiệp, có tìm được việc
dễ dàng không? Được phép ở lại nếu
lập gia đình cùng người đã có thẻ xanh
của Mỹ không? Tân cho biết thêm là
sinh viên hải ngoại thời đó, không được
phép ghi danh ờ trường đại học các
ngành Y Nha Dược đã có ở Việt Nam.
Phương và Tân được quen biết trong
buổi tiệc sinh nhật tại nhà Quỳnh, cô
bạn gái học Văn Khoa. Khi giới thiệu
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 86
mới được biết Tân sau khi về Việt Nam,
làm giáo sư anh văn dạy lớp tối ở Hội
Việt Mỹ. Phương cũng đang đi học bổ
túc anh văn lúc bãi trường rảnh rỗi.
Tình cờ trùng hợp nhà Tân lại ở bên kia
cầu vòng qua Khánh Hội, nhà Phương
ở bên nầy cầu không xa lắm. Qua
những đề tài nói chuyện, hai người có
những quan niệm tư tưởng giống nhau.
Thỉnh thoảng trước buổi học tối,
Phương hay hỏi Tân cách phát âm đúng
chuẩn cho những danh từ, những câu
đối thoại thông thường khi giao tế trong
nghề nghiệp như thế nào?
Tân mời Phương uống café, ăn bánh
ngọt ở kiosque của trường. Chàng dạy
cách phát âm, bắt nàng lập lại cho đúng
giọng Mỹ, những lúc còn sớm chưa vào
lớp. Có những hôm Phương không có
xe velosolex đi về, vì thỉnh thoảng bị
anh họ mượn xe chở bạn gái đi chơi.
Tân xin phép được đưa Phương về tận
nhà ở cùng đường trên xe Vespa của
chàng.
Một tình cảm nhẹ nhàng kín đáo lâng
lâng xâm chiếm tâm hồn nàng, nhưng
Phương đôi khi nhận thấy một nét buồn
thoáng qua che dấu nơi Tân. Tân
thường nhắc đến mẹ và không bao giờ
nói đến ba, Tân ờ chung với mẹ trong
một căn hộ khang trang chưng bày khá
sang trọng theo lối Âu Mỹ. Hoàn cảnh
gia đình đơn chiếc, nên Tân phải đi làm
nhiều giờ để nuôi và săn sóc sức khỏe
cho mẹ, Phương cảm thấy thương cảm
và mến Tân nhiều hơn trong giới hạn
tình bạn. Chính Phương cũng không
biết rõ tâm tình mình biến chuyển ra
sao, chớm nở, lờ mờ.
Phương nhớ đến những món quà nho
nhỏ gởi về khi Tân đi công tác ở hải
ngoại. Chiếc thuyền rồng bằng ngà voi
từ Thái Lan xinh xắn gởi về, Phương rất
thích khi nhận được, giữ mãi những kỷ
vật trân qúi này. Đôi lúc ngại ngùng,
nàng suy nghĩ mình sẽ trả lại ân tình của
Tân ra sao? Tân rất mến Phương nhưng
chưa bao giờ đề cập đến hôn nhân. Đó
là bí ẩn mà Phương chưa biết và chưa
muốn tìm hiểu. Vì tự ái và tôn trọng sự
lựa chọn của Tân và của riêng nàng.
Tân thường hay suy tư và nghĩ ngợi xa
xôi.
Phương nhớ lại ngày đầu tiên ra ga xe
bus để đi lên phi trường Tân Sơn Nhất,
đến nơi bổ nhiệm làm việc cho Bệnh
viện trung tâm Y Tế toàn Khoa Pleiku.
Tân có đến tiễn đưa nàng cùng đi với
chị. Chàng cẩn thận viết bảng tên chi
tiết dán vào valise, dặn dò từ lúc đi đến
lúc nhận hàng khi tới. Tân săn sóc
Phương như tình người anh cả đối với
cô em gái nhỏ. Phương lên xe không
quên cám ơn, nhìn Tân mỉm cười với
đôi mắt u sầu và lo lắng. Đây là lần đầu
tiên nàng phải xa gia đình.
Tân nhìn nàng như muốn thổ lộ điều gì
nhưng rồi lại im lặng trầm ngâm khó
hiểu.
- Are you fine today? the sunshines in
your smile.
Câu nói pha trò bằng Anh ngữ làm
Phương bật cười quay về hiện tại. Một
nụ cười dịu hiền duyên dáng mà Mẹ
nàng ban cho. Tân nhìn nàng trìu mến
như muốn ôm giữ nụ cười ấy mãi trong
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 87
ký ức.
Một buổi sáng dưới cành thông trong
sân bệnh viện, nàng được điện tín của
Tân mở ra vội vàng:
- Có người ờ thành đô vẫn nhớ đến
Phương luôn…
Cô nhân viên ở phòng thơ ký, đứng bên
cạnh vừa nhìn trộm và chọc ghẹo
Phương:
- Chị có người yêu còn dấu diếm chi
rựa? Khi nào ăn mừng cho mình biết,
chuẩn bị để dành tiền nghe! nàng vui
vẻ bắt tay Phương chúc mừng, nhưng
Phương đáp lại:
- Không phải như cô nghĩ đâu! Chỉ là
bạn thôi, chưa có hứa hẹn gì cả.
Khí hậu trưa hè Sài thành hôm nay rất
nóng, Tân mời Phương cùng dùng bữa
ăn trưa. Phương hơi ái ngại nhưng sự
thành khẩn của Tân cuối cùng thuyết
phục nàng. Trên đường Nguyễn Huệ
gần chỗ làm của Tân, có tiệm mì Hảo
Huê mà Phương thường thích ăn,
Phương tự ý chọn món mì nước cho
mình, Tân cũng rất tán thành chọn theo,
sau đó rẽ vào tiệm kem Pole Nord để có
thì giờ tâm sự chuyện trò thoải mái.
Chàng gọi ly café đắng, bánh ngọt tráng
miệng theo lối Mỹ. Nàng lúc nào cũng
vẫn thích trái cây đầu mùa và kem nước
dừa. Tân dò xét tâm tình nàng, chàng
phá tan bầu không khí yên lặng và chọc
Phương:
- Có cây si nào nẩy mầm vươn lên xứ
lạnh không?
Nàng thừa hiểu ý nghĩa câu hỏi, dí dỏm
trả đũa:
- Xứ lạnh mưa phùn gió bụi, thì cây si
nào mà sống được! Chỉ có hàng thông
cao ngất cổ thụ đứng yên, những cơn
gió thoảng qua chỉ đủ làm rung nhẹ
cành lá thôi! Khi nào thông reo giữa
trời thì Phương cho anh biết nhé!
Luôn dịp nầy, Phương cũng dò xét tình
cảm Tân đối với nàng ra sao, một cách
kín đáo và khẽ hỏi:
- Chừng nào anh có người đẹp muốn
nâng khăn sửa túi, trói chặt anh cho
Phương biết nhé.
Tân rất chân thật. Chàng tâm sự trong
lúc nầy với ánh mắt buồn đau khổ:
- Vì hoàn cảnh gia đình khi cha anh là
luật sư theo phong trào chống Pháp, bị
bắt buộc tập họp về miền Bắc sau khi
chia đôi đất nước Việt Nam. Khi ấy anh
còn quá nhỏ, mẹ anh không muốn ra
Bắc, vì được một gia đình bạn thân giúp
đỡ theo lời hứa với ba anh, giúp tiền khi
cần cho mẹ anh để sống chờ ngày ba trở
về. Hai gia đình có hứa hẹn làm thông
gia. Gia đình bên ấy rất chiều anh, Trân
con gái đầu lòng chờ đợi ngày anh du
học trở về Việt Nam từ lâu, nhưng anh
chưa muốn lập gia đình, phải lo cho mẹ
sống an nhàn. Cách sống cũng không
hợp với cô ấy, trình độ hiểu biết quá
chênh lệch. Anh không biết làm sao cho
hợp tình hợp lý. Anh không muốn vong
ân bội nghĩa, làm buồn mẹ và gia đình
cha mẹ cô ấy. Thỉnh thoảng anh cũng
nghe lời mẹ, đến thăm cô ấy, tình cảm
thì lợt lạt chưa biết sẽ đi về đâu? Anh
hiện giờ trong vòng chiến đấu giữa lý
trí và tình cảm rung động của con tim.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 88
Rồi Tân hỏi:
- Phương có thể giúp anh lựa chọn con
đường phải đi không? Chờ đợi câu trả
lời vậy có được không?
- Phương sẽ cầu Thượng Đế cho anh
được bình an vui mạnh, giúp anh sáng
suốt trong sự chon lựa sau nầy.
Đến lúc phải trở lại văn phòng làm việc,
khi đi ngang qua cửa hàng bán hoa, Tân
dừng lại nhìn bó hoa hồng nhung hé nở
với chút suy tư đa cảm. Bỗng dưng
chàng vội vàng tiến lại gần chậu hoa
violette hồng tím đưa mắt nhìn Phương
như ngỏ ý muốn tặng nàng để kỷ niệm
ngày hôm nay. Phương thầm hiểu ý
chàng, nàng tiến lại gần cầm lấy chậu
hoa bé nhỏ xinh xắn, vuốt ve cánh hoa
nhẹ nhàng mơn trớn, nàng dịu dàng nói:
-Hoa voliette đẹp thật, mầu hoa tím kín
đáo và nhớ nhung.
Tân quay lại thầm cám ơn sự trầm lặng
trong ánh mắt nàng. Chàng ngưỡng mộ
và khen nàng bằng một giọng thật nhỏ
chỉ đủ hai người nghe:
- Phương có vẻ vững vàng trưởng thành
hơn ba tháng trước.
Cuộc sống tự lập xa gia đình đào tạo
cho nàng một nếp sống mới! một quan
niệm thực tế dễ dàng chọn lựa một
tương lai thành công và như ý. Tân nhìn
xa vắng, nhưng chàng quay về thực tại
và bảo:
- Dầu ở nơi nào và tình cảnh thế nào?
thì chỉ một thoáng tình cảm chân thành,
thông cảm cao quí, cũng đủ mang lại sự
êm đềm tươi mát như cơn gió thoảng
trong nắng ấm mùa hè…
Hôm sau theo lời mời, Phương cùng
Hoa, Dũng, Quang, ăn tối tại nhà hàng
Mỹ Cảnh. Các bạn trò chuyện rất vui
nhộn, rất cởi mở. Quang hay nhìn lén
quan sát cử chỉ của nàng, hay gợi ý xem
Phương có yêu ai chưa? Các thức ăn rất
ngon miệng, vì từ lâu Phương xa
Saigon, nên rất vừa ý bữa tiệc hôm đó.
Quang có tâm lý hiểu người, vì anh ấy
đã hơn 30 tuổi rồi. Anh nôn nóng có
người nâng khăn sửa túi hòa hợp. Bữa
ăn kéo dài đến khuya, nhưng rồi tiệc
nào cũng phải tàn. Khi ra về, Quang xin
phép đưa Phương về, hỏi địa chỉ bệnh
viện nơi Phương làm việc, có mời nàng
đi ngang nhà riêng của Quang vừa mua
ở gần sở làm. Quang vừa được bổ
nhiệm việc làm với Ty Điện Lực Gia
Định. Phương về nhà hơi khuya, nàng
không muốn mời anh vào chào anh chị.
Quang có vẻ lưu luyến và nắm siết chặt
tay, hôn má nàng. Phương không có
phản ứng kịp, nhưng cũng hơi cảm xúc.
Quang quá lịch lãm, vui vẻ và tự nhiên.
Chàng dò ý:
- Nếu Phương không muốn về lại
Pleiku, thì Phương không cần bằng
dược sỹ liền. Phương lấy cớ bệnh
không đi xa được, sẽ can thiệp với Bộ
Y Tế sau. Không có vấn đề gì quá khó
giải quyết, trừ khi không có sự đồng ý
của Phương thôi.
Phương về nhà trằn trọc suy nghĩ mãi,
không biết sẽ ra sao ngày sau? Tiến hay
lùi, mà có can đảm bỏ nhiệm sở việc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 89
làm không? Cha nàng có vui chấp nhận
đồng ý không? Mà chưa hiểu rõ Quang
sao chấp nhận liền. Phải có thời gian
tìm hiểu chuyện hôn nhân lâu dài, đâu
có nhìn bề ngoài hứa hẹn được, phải tìm
hiểu quá khứ nữa. Phương thầm nghĩ tại
sao duyên số mình trắc trở chỉ vì phải
đi làm việc ở "chỗ khỉ ho cò gáy"
không đáng nầy.
Nàng tức giận phái đoàn y tế Mỹ tại sao
lại bày ra việc dược sỹ phải nhận nhiệm
sở ở xa theo sự bắt buộc mà không có
sự đồng ý ở một nước Việt nam có nhân
quyền và tự do nầy. Phương ngồi dậy
viết vào 2 miếng giấy nhỏ "có được,
không được" rồi nhắm mắt bốc thăm 5
lần. Sau cùng là thăm lọt ra "không
được". Thế là nàng đọc kinh cám ơn
Đức Mẹ và mẹ nàng đã mất, xin che chở
nàng mỗi khi có việc quan trọng không
tự giải quyết được. Nàng đi vào giấc
ngủ say sưa không còn suy tư hay biết
gì nữa.
Trước khi về Pleiku, Quang có tới nhà
thăm Phương và xin phép được gặp ba.
Anh chào ba kính cẩn, lễ phép trò
chuyện vui vẻ tự nhiên. Ba cũng có cảm
tình với anh, riêng Phương suy nghĩ lại
và trả lời:
-Thời gian rất ngắn, tiếc quá! Nếu có
duyên, thì việc gì cũng có kết quả tốt.
Xin anh đừng chờ Phương; còn có bao
nhiêu cô gái trẻ đẹp, anh Quang sẽ gặp
ở những dịp khác tình cờ, làm sao biết
trước được ngày mai.
-Quang sẽ chờ sự quyết định của
Phương, người mà anh có thiện cảm
ngay lần đầu tiên gặp gỡ, mong là
Phương đừng chê và quên anh.
Sáu tháng trôi qua, Hoa có viết thơ,
nhắc lại chuyện Quang vẫn chờ và nhớ
Phương, mong nàng về phép và quyết
định ra sao? Phương gởi thơ cho Hoa:
- Khó quá Hoa ơi! Phương nhớ lại lời
tử vi của Ông Trần Hữu Ích là "cô nên
lập gia thất trễ thì tốt hơn" Phương phải
có dịp tìm hiểu Quang lâu hơn. Phương
chưa muốn lập gia đình trước khi hết
nhiệm kỳ 2 năm. Phương muốn được
về làm dược sỹ ở Saigon gần gia đình.
Bảy tháng sau, được tin Quang do mai
mối giới thiệu cưới Lan. Nàng là giáo
sư dạy français không đẹp lắm, tánh
tình dễ mến, rất cởi mở, có duyên ăn nói
như Hoa. Lan là con của một gia đình
giáo sư khoa học nổi tiếng ở Saigon,
bạn với mẹ Quang. Quang gởi thiệp
hồng mời: "Phương có thể xin về phép
không? Dự tiệc cưới và giới thiệu Lan
với Phương, xin được làm bạn tốt mãi".
Phương viết thơ trả lời: "Cám ơn anh
Quang và xin gởi quà mừng vậy. Tiếc
quá, không dự được tiệc cưới, vì nhân
viên phòng dược vừa được thuyên
chuyển về Cần Thơ. Cậu dược tá đã ở
đây 5 năm rồi sắp cưới vợ. Phương phải
chờ người dược tá mới về thay thế. Xin
thành thật cầu chúc anh Quang và cô
Lan trăm năm hạnh phúc mãi mãi bên
nhau".
Sau lần gặp Tân, Phương không có dịp
về Saigon thường xuyên. Phương cũng
lơ lửng, khó cho Phương để trả lời câu
giải đáp cho Tân.
Hai năm sau, Tân có tới dự đám cưới
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 90
Phương được tổ chức ở Saigon tháng
12/1968. Ngày ấy không biết tại sao
Phương không một lời hỏi thăm Tân có
lập gia đình chưa? Chỉ mời Tân một
mình để chia xẻ niềm vui trong ngày
hạnh phúc của mình. Tân không từ chối
mà tới dự tiệc chúc mừng. Tân trầm
lặng nhìn Phương tươi cười với các
bạn. Vì quá bận rộn Phương quên cả sự
có mặt của Tân ngày hôm ấy, thật là vô
tình quá! Nàng có biết nỗi lòng của bạn
mình ra sao từ dạo ấy không?
Phương được biết Tân vượt biên,
nhưng chiếc ghe rời bến chưa ra đi khỏi
hải phận Việt Nam, bị sóng đánh tan
tành, vợ con đã chết hết. Tân bơi lội rất
chuyên nghiệp bám vào mảnh ván bể,
nên thoát chết. Anh được trôi giạt trở lại
giòng sông Sàigòn, được đưa về bệnh
viện cứu sống.
Sau nầy được biết Tân đã an cư lập
nghiệp tại tiểu bang Californie do một
người quen thuật lại.
Thời gian qua đi, mỗi người đã có đời
sống với hoàn cảnh hiện tại rất hạnh
phúc. Sự nghiệp mỗi người ở một
phương trời khác. Đại gia đình với con
cháu đầy bổn phận. Tình và nghĩa gắn
bó, đó là những gì ta đang có, phải trân
quí nó, còn dĩ vãng chỉ còn lại ở một
góc nào đó trong ký ức.
Những kỷ niệm êm đềm đã qua tô điểm
cho cuộc sống. Thời thanh xuân chưa
vướng bụi trần. Bài thơ nầy Uyên
Phương rất thích:
Tình chỉ đẹp, khi còn dang dở
Đời hết vui, khi đã vẹn câu thề
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau, lơ lửng với nghìn xưa...
Mong có dịp nào Tân đọc được bài thơ
nầy. Xin đừng buồn người em gái nhỏ
thời xa xưa ấy.
Thy Phượng
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa…
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 91
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Kiều Sơn sưu tầm 92
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Kiều Sơn sưu tầm 93
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Kiều Sơn sưu tầm 94
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Kiều Sơn sưu tầm 95
Tháng tư
nhớ
để ngậm ngùi
Tang thương một thuở dập vùi tương lai.
Mất sông
mất núi
mất người
Trắng tay còn lại một đời lưu vong.
Lênh đênh
biển sóng lạnh lùng
Tấm thân vô xứ bạn cùng ai đây?
Người đi
mang kiếp lạc bầy
Bơ vơ tàn tạ chuỗi ngày đơn côi .
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 96
Rừng hoang, nước độc
một thời
Thương người ở lại chịu đời đắng
cay.
Vạn bàn tay
níu bàn tay
Đường vô khổ nạn biết ngày nào
ra!
Bắc Nam
tưởng đẹp một nhà
Ai, người lỡ vận phải sa miệng
hùm?
Những còng tay
những siết chân
những thân đày đọa
những tâm oán hờn.
Bốn mươi lăm năm
cô đơn
Giữa hoa lệ
vẫn nghe hồn chân quê.
Người đi
không phải quên về
Bởi đau nhân thế nên tê tái lòng.
Còn ngày
còn tháng
còn mong
Còn trong ước nguyện một xuân
thái hòa.
Ta về
nói với riêng ta
Vỡ cơn mộng dữ nở hoa bốn mùa.
TRANG CHÂU
Montréal 22/04/2020
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 97
Bích Ngọc
C
hiếc máy bay từ từ đáp xuống phi
đạo. Montreal chiều tháng bảy
không một gợn mây, trời trong vắt, gió
mơn man cùng những tia nắng lung linh
nhảy múa trên cao như chào đón bước
chân của Thùy. Nàng cảm thấy yêu thành
phố này ngay. Xa Việt Nam đã 18 năm,
đây là lần đầu tiên Thùy đến Montreal.
Nhiều người bạn của Thùy đã ca tụng
thành phố của muôn nóc giáo đường, của
những ngôi nhà xưa cổ với những con
đường lát đá xinh xinh. Thành phố của
những quán cà phê vỉa hè thơ mộng rộn
rã tiếng cười. Thành phố trai thanh gái
lịch của tình yêu và hò hẹn... Phố xá
Montréal đầy hấp lực nhưng cũng thoang
thoáng đâu đây một nỗi đe dọa mơ hồ
khiến Thùy cứ chần chừ tránh những dịp
du lịch qua thành phố mang bản sắc Pháp
giữa lòng Bắc Mỹ này. Nhưng lần này thì
Thùy không lẩn trốn được nữa, Cô bạn
thân Gia Long ngày xưa đi lấy chồng, hơi
chút trễ tràng so với bạn bè cùng tuổi.
Mong Hoài Hương sẽ nắm giữ được hạnh
phúc đừng như mình… Thùy cắn nhẹ
môi, một chút xót xa dâng lên làm cay cay
đôi mắt. Ngày Thùy chia tay với Tuấn
cũng là lúc nhận được thiệp hồng của
Hoài Hương. Có những vì sao khi tỏ khi
nhạt. Hẳn Hoài Hương và Thùy không
cùng chung một dải sao trời cho nên khi
Thùy bị xoáy lốc trong bão tố tình cảm là
lúc Hoài Hương hân hoan bước sang phần
bên kia đời sống, bắt đầu những chia sẻ
cay ngọt với một người. Cánh thiệp vu
quy của Hoài Hương là thông điệp của
hạnh phúc, của tình yêu thăng hoa. Mặc
dù đang ê chề trăm nỗi, con tim khô héo
của Thùy cũng rạo rực chia vui với bạn,
nàng quyết định làm một chuyến du hành
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 98
qua đây làm chứng nhân cho một kết hợp
có duyên có hậu vì không phải lúc nào
thượng đế cũng nhẫn tâm gieo hiu hắt
trong cuộc đời bằng những tan tác chia ly.
Ngày cưới, Hoài Hương rạng rỡ áo trắng,
má hồng, mắt long lanh cười, tươi và tinh
khiết như cành hoa
lan. Thùy độc thân,
không vướng bận
nên được vinh dự
theo sát, phục vụ
cô dâu. Hoài
Hương thật may
mắn được ngày
đẹp trời, gió quên
bay, mây trong
xanh, niềm hân
hoan rạng ngời
trên từng khuôn
mặt khách tham dự. Tiếng cười của cô
dâu, chú rể ngân vang trong nắng chiều
rộn rã. Hạnh phúc thật sự đã có trong tay
nên niềm vui choán ngợp cả không gian.
Đã lâu lắm Thùy không có được ngày
hoàn hảo như thế.
Dạ tiệc buổi tối, Thùy được rảnh hơn vì
cô em gái của Hoài Hương đã thay thế
nàng chăm sóc cho cô dâu. Thùy được
ngồi thoải mái trong bàn cùng với chị em
của Hoài Hương. Đang mải mê nghe cô
em dâu của bạn thao thao về Montreal với
sắc màu quyến rũ của bốn mùa xuân hạ
thu đông, một bàn tay đặt vội vã nhưng
đầy níu kéo trên vai Thùy với tiếng gọi
thảng thốt. Ngạc nhiên, Thùy qua lại. Căn
phòng chợt chao nghiêng với những
khoảng tối sáng nhập nhòa và những tiếng
kêu rối rít trong ký ức. Khoa của ngày xưa
đang sừng sững trước mặt. Khoa của bờ
biển Merang 18 năm trước. Trời ạ, đừng
khóc Thùy ơi! Tưởng như là đã quên,
tưởng như là sẽ dửng dưng giây phút gặp
lại... Kỷ niệm một thời thơ trẻ với những
cười đùa nghịch ngợm, tiếng hát rộn ràng
lẫn những băn khoăn ưu tư của những con
chim sớm lìa tổ khiến cho tuổi mới lớn
của Khoa, của Thùy và những người bạn
đồng hành trên
hoang đảo tỵ nạn
ngày xưa mang một
âm hưởng vô cùng
đặc biệt.
Trong cơn xúc
động, Thùy bật ra
một câu hỏi phản
xạ: Khoa đó hở?
Hạnh Chi đâu?
Dáng Khoa càng lúc
càng đậm nét trong
mắt và tâm trí, quá
khứ mỗi lúc mỗi gần hơn. Tiếng nói ngày
xưa vang lên: Anh không ngờ được gặp
lại Mộng Thùy hôm nay. Tạ ơn trời. Hạnh
Chi có việc phải đi Paris, không về kịp
hôm nay.
Buổi tiệc cưới đang vui bỗng trở thành tẻ
nhạt, chậm chạp trôi. Tâm hồn Thùy lao
xao những tiếng sóng vỗ, có bước chân ai
đang vội vã quay về vùng ký ức xa xôi.
Vùng biển vắng năm nào với ngày tháng
rong rỗi, đếm thời gian đi mà lòng ngổn
ngang những lo toan. Không nơi nào mà
thời gian lại rẻ như trên dải đất tỵ nạn,
may mà có Khoa, Toàn, Thiều, Dũng,
Hạnh Chi, Tường Vi... Trên đảo, ngoài
những lần gặp Cao Ủy Tỵ Nạn và những
lần đi khám sức khỏe, thời gian như
ngừng trôi. Tụi trẻ đã tìm đến nhau rong
chơi, ca hát cho quên những lo lắng muộn
phiền. Tương lai còn xa, bên kia bờ đại
dương. Trên những bãi cát vàng hoe, bên
những thầm thì của sóng biển là tiếng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 99
cười, tiếng hát của bọn Thùy. Có những
ước mơ của tuổi đôi mươi đã quyện vào
tiếng đàn, lời ca bay cao, bay xa. Cũng có
những giây phút ngậm ngùi lo sợ về một
điểm đến mông lung. Đời sống ở trại là
những tiễn đưa, những trông chờ, lo lắng
và hy vọng. Đó là một phần đời không thể
quên. Những con chim nhỏ như Thùy,
như Khoa, Dũng, Thiều đã giã biệt quê
hương ngục tù, mạo hiểm trên những con
thuyền chòng chành vượt đại dương tìm
về miền đất hứa. Một cuộc viễn hành quá
nặng nề cho lứa tuổi chúng tôi. Có những
mất mát to lớn trong những cuộc hải hành
vừa qua. Như Hạnh Chi với vành khăn
tang trắng muốt đến tê tái lòng, ba mẹ,
anh em đã sâu lắm rồi trong lòng biển
lạnh. Với thân đơn côi và tâm hồn mảnh
khảnh, Hạnh Chi nhìn về tương lai với
bao tư lự, băn khoăn. Như em Thiều tuổi
chỉ mới mười lăm nhưng đã rất đạo mạo
như một giáo viên lâu nghề vì cha còn
đang trong trại tù xa xôi, mẹ đang bôn ba
những buổi chợ trời. Tuổi trẻ nhốn nháo
trong tao lọan nhưng cũng dễ tìm nguồn
an ủi bên bạn bè cùng cảnh. Thùy nguôi
ngoai nỗi nhớ nhà nhờ các bạn cùng trang
lứa và cùng cảnh. Khoa là niểm an ủi, nơi
trút bỏ muộn phiền, âu lo của nàng. Tháng
ngày thong thả trôi. Vào một buổi chiều
nhạt nắng, Khoa đã tỏ tình với Thùy bên
ven biển vắng. Gió mênh mang thổi, gió
thổi bay tà áo, gió thổi lay lòng người,
hạnh phúc chợt tràn trề, tung bay, reo vui
giữa đất trời bao la. Nỗi mơ ước được rời
trại đã bớt thôi thúc. Những ngày kế tiếp,
bầu trời như hồng hơn, nắng đã vơi gay
gắt và gió dịu dàng hơn, con bé Thùy
chìm trong hạnh phúc ngắn ngủi vì Khoa
rời trại đi Canada một tháng sau đó.
- Mơ mộng gì thế nhỏ? Cho bà về trước
đó. Bà có vẻ phờ lắm rồi.
Hoài Hương lắc vai Thùy:
- Hương đã nhờ Khoa đưa Thùy về. Hay
đúng hơn, Hương nháy mắt, Hương đã
cho Khoa cái diễm phúc đêm nay anh đưa
em về. Ai mà biết hai người quen nhau từ
trước. Thế giới này nhỏ thật.
Thùy ôm Hoài Hương:
- Ừ thôi Thùy về, chúc mi và chàng vạn
vạn ngày hạnh phúc. Ngày mai Thùy về
San Diego rồi. Hai người phải thu xếp
sang đó ngắm biển.
Giọng Hoài Hương ướt sũng:
- Bon voyage Thùy. Cám ơn Thùy về tất
cả những gì Thùy đem đến cho Hương
những ngày qua. Hương giao thùy cho
anh Khoa đó. Đừng để bạn Hương buồn,
Hương sẽ giận.
Khoa lè lưỡi:
- Dạ kẻ hèn này đâu dám chọc giận nhị vị
tiểu thư.
Ngồi trên xe, Khoa lướt nhanh qua những
con đường lập lòe những ánh màu.
- Mười tám năm xa nhau. Thùy hãy cho
phép anh gần bên em đêm cuối cùng của
em tại Montréal nhé. Anh cứ ngỡ mình
đang mơ một giấc mộng đẹp. Đừng đánh
thức anh Thùy ơi.
Giọng Khoa trầm ấm, Thùy nghe lòng
lâng lâng. Ngày mai đi, một bóng hình rất
thân thương, chôn sâu kín tận đáy lòng,
vừa tìm lại được, rồi sẽ lại xa. Tất cả vội
vã quá, như chính cuộc đời bất thường
của mình. Cưỡng lại lý trí, Thùy im lặng,
Thùy cũng muốn bên Khoa đêm nay, phút
giây này rồi sẽ kết lại trong tim như
những viên hạt trai vô giá. Xe xa dần
những con lộ réo rắt nhạc đêm, Khoa đưa
Thùy lên đỉnh Mont- Royal nhìn xuống
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 100
hàng cây yên ngủ và xa xa một thành phố
chong đèn. Montreal trên đỉnh sương mù,
Thùy nghe hồn mình cô đọng những nỗi
niềm trầm uẩn. Khoa lặng yên nhìn Thùy:
- Em vẫn đẹp như ngày nào. hình như thời
gian chẳng lưu lại được dấu vết gì nơi em.
Vẫn là Mộng Thùy của ngày xưa. Anh đã
nhận ra được em ngay trong muôn vạn
bóng người.
Khoa đổi giọng trách móc:
- Em đến đây từ hôm nào mà im hơi thế.
Khi anh tìm lại được con chim nhỏ của
anh thì em lại sắp tung cánh bay.
Thùy lại nghe lao đao con tim yếu đuối,
nhưng chỉ nhẹ nhàng đáp trả:
- Khoa chỉ hơi chút xíu tròn trịa hơn xưa,
còn thì vẫn thế.
Khoa vẫn giữ giọng hờn dỗi:
- Sao em lẩn tránh anh hở Mộng Thùy?
Anh đã làm gì để em giận ghét anh đến
thế?
Có những tiếng kêu phản kháng trong
lòng Thùy: Khoa ơi, em chẳng bao giờ
ghét được anh, chỉ có điều... Nhưng Thùy
chỉ hỏi:
- Hạnh Chi ra sao rồi hở anh?
Khoa hờ hững: Vẫn
bình thường. Chi
làm counselor cho
một hãng điện toán,
thỉnh thoảng phải đi
xa.
- Tội nghiệp anh, gà
trống chăm con...
Khoa cười buồn:
- Tụi anh chưa, và
có lẽ chẳng bao giờ
có con để anh có
diễm phúc làm con
gà trống lo cho con.
Còn em, cái người
may mắn kia đâu lại
để em đi xa một mình?
Thùy áo não:
- Cái người đó nay lại càng may mắn hơn
vì tụi em đã xa nhau rồi. Em có một cháu
gái mười tuổi, Thùy Anh đang ở với ông
bà ngoại, thường thì cháu ở với em.
Khoa siết chặt tay Thùy, xót xa:
- Tội nghiệp em tôi. Nhưng anh không
hiểu tại sao ngày trước em lại trốn tránh
anh. Anh có lỗi gì hở Mộng Thùy? Anh
cứ ngỡ những chiều bên nhau nhìn trăng
rơi trên sóng nước Merang, những lần thủ
thỉ tâm sự cùng nhau đã kết chặt vận
mạng hai đứa. Mộng Thùy và Đăng Khoa
mãi mãi đồng hành bên nhau trên con
đường hạnh phúc. Vậy mà... Anh đã lầm
lỗi gì để em giận ghét anh đến độ phải
tuyệt giao? Biết bao lá thơ gửi cho em bị
trả lại vì địa chỉ đã thay đổi.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 101
Rồi sau đó, Hạnh Chi đưa anh đọc bức thơ
em gửi khoe hạnh phúc. Anh bàng hoàng,
giận em vô cùng và cũng quá đau đớn khi
nhận ra rằng anh đã thật sự mất em, mất
em không
lý do. Lúc
ấy tự ái và
những
vướng bận
học hành
đã giữ
chân anh
lại, mặc
dù anh rất
muốn mạo
hiểm đi
tìm em.
Nhiều năm sau nữa, anh vẫn có ý định
này, nhưng Tường Vi cho biết em đã lập
gia đình. Thế là hết. Em không thể tưởng
tượng được niềm đau, nỗi hụt hẫng của
anh.
Thùy cúi đầu che nước mắt:
- Em cũng đâu vui sướng gì khi cố tình
cắt đứt liên lạc với anh.
Khoa lắc vai thùy:
- Anh không hiểu em, anh có lỗi gì khiến
em ghét anh đến thế?
- Em không ghét, không giận anh nhưng
em thương Hạnh Chi.
Thùy buột miệng nói một mạch như đã
không còn kềm giữ được lòng:
- Giá đừng có Hạnh Chi trên đảo, giá
Hạnh Chi đừng gặp quá nhiều bất hạnh,
giá Hạnh Chi và anh đừng đến cùng một
thành phố, em sẽ không để anh xa em.
Thùy thổn thức tiếp:
- Anh biết không, ngày anh rời đảo, em
càng thân với Hạnh Chi. Em thương Hạnh
Chi với những mất mát quá to lớn. Những
lần Hạnh Chi tâm sự, em khám phá ra
được trái tim mỏng manh yếu đuối của
bạn mình. Rồi đến cái ngày định mệnh,
em tình cờ
đọc được
nhật ký
của Chi.
Cả bầu trời
như sụp
đổ, em
muốn quỵ
ngã trước
mối tình
câm lặng
nhưng rất
nồng nàn
của Hạnh Chi dành cho anh. Có oan
nghiệt không hở anh? Người bạn thương
yêu của em dành trọn trái tim cho anh. Em
còn gì để nói, để ước ao, để mơ mộng?
Thùy thở dài:
- Em đã bị xung đột tình cảm trong nhiều
ngày. Em tự trách mình, trách trời đã xui
khiến em đọc những hàng chữ si tình
đáng thương kia. Em không đủ can đảm
hủy diệt niềm vui sống độc nhất của con
người bất hạnh đó. Cuối cùng em phải cố
quên anh. Em đã phải dối lòng mình: em
chưa yêu anh.
Khoa ôm vai Thùy, kinh ngạc, giọng nửa
trách móc nửa xót xa:
- Em cao cả và ngốc nghếch quá Thùy ơi.
Có ai đem tình yêu ra cân nhắc như em.
Em hy sinh hạnh phúc chúng ta. Đáng lẽ
anh phải giận em, hận em, nhưng anh
không thể. Bóng hình em luôn ngự trị
trong tim anh.
Thùy buồn buồn:
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 102
- Em không cao cả. Em quả có suy tính.
Em ngẫm nghĩ Hạnh Chi có lợi điểm là ở
cùng thành phố với anh, ba mẹ anh đều
yêu mến Hạnh Chi. Sự kết hợp của hai
người là một hạnh vận vuông tròn. Tất cả
đều do định mệnh. Nếu em và anh đến với
nhau, gương mặt đau khổ đầy tuyệt vọng
của Hạnh Chi sẽ muôn đời ám ảnh em,
liệu chúng ta có thể vui sống bên nhau?
Khoa thở mạnh:
- Em vụng tính, em khờ dại quá Thùy ơi.
Anh chỉ yêu em. Khi đã mất em thì anh
còn màng chi đâu. Hạnh Chi hay ai khác
cũng như nhau thôi.
- Đừng tàn nhẫn với Hạnh Chi như thế.
Em chỉ muốn đem lại hạnh phúc cho anh
và Hạnh Chi.
Khoa cay đắng:
- Hạnh phúc là cái gì quá trừu tượng.
Càng mong mỏi thì nó lại càng mong
manh, xa cách. Như anh chỉ có một ước
muốn nhỏ đã bao năm qua mà nào anh đã
đạt được. Anh chỉ muốn khi chợt thức
giấc nửa đêm, được nghe tiếng thở đều
của em trong giấc ngủ, như ngày xưa em
thiu thiu ngủ khi hai đứa ngồi nghe sóng
vỗ trên triền đá. Một giấc mơ bình thường
như thế mà phức tạp vô ngần.
Khoa bỗng trở nên tha thiết:
- Thùy ơi, tương lai chúng mình bây giờ
tùy thuộc vào em. Chỉ cần em ban lệnh ra,
nhất nhất anh sẽ tuân theo. Em phải nhớ
em là mối tình đầu, mối tình muôn thuở.
Ngay phút đầu gặp gỡ, nhìn ánh mắt thơ
ngây thánh thiện của em, anh biết rằng
trái tim anh đã thuộc về em. Hạnh Chi biết
rằng anh xem nàng như một người em
hơn là một người vợ, Hạnh Chi sẽ hiểu.
Thùy bật khóc:
- Lệnh của em là anh phải luôn thương
yêu, bảo bọc Hạnh Chi. Em đã quá yếu
lòng đêm nay, em đã kể hết những nỗi
niềm riêng tư của mình. Em nghĩ anh
được quyền biết vị trí của anh trong tim
em. Nhưng ta không có quyền làm khổ
Hạnh Chi. Nếu nhớ tới em, thỉnh thoảng
anh trở lại đồi núi này tìm về kỷ niệm,
như em đã bao lần lái xe ra biển hồi tưởng
thuở đôi ta tung tăng nhảy sóng dưới ánh
trăng vàng huyền diệu. Đối với em,
những giây phút đó thật cần thiết cho đời
sống hiện tại. Bây giờ em thật hạnh phúc
vì em đã tìm lại được anh và biết rằng em
có một chỗ đứng trong tim anh, đó sẽ là
động lực khiến em vững bước trong cuộc
đời. Mình sẽ luôn gần nhau trong tâm
tưởng. Phá vỡ một hạnh phúc để xây dựng
hạnh phúc khác e sẽ gặp nhiều gập ghềnh
cay đắng. Em rất sợ ta gần nhau trong
khoảng không gian nhưng hai tâm hồn
luôn vật vã với những ân hận, mặc cảm
bởi những đổ vỡ chung quanh. Gặp lại
anh hôm nay trong tình xưa tha thiết, Em
yêu và được yêu, còn diễm phúc nào hơn.
Yêu không phải là chiếm hữu. Tình yêu
đích thực là biết hy sinh và vui với hạnh
phúc của người thương. Anh hãy về với
Hạnh Chi để ta luôn được hãnh diện về
nhau. Hãy về với Hạnh Chi để hình ảnh
anh luôn rực rỡ trong tim em.
Tiếng cô tiếp hành viên lảnh lót gọi tên
chuyến bay. Thùy đẩy hành lý vào bên
trong. Dáng Khoa nghiêng nghiêng trong
vạt nắng sớm vẫy tay chào. Thùy biết
hình ảnh này đã đi sâu vào tâm khảm
mình.
Bích Ngọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 103
Mọi chi tiết xin liên lạc
Trang Châu
lvtrangchau@yahoo.ca
Thực hiện & Trang trí
Dziïn Höìng Designs
dzienhongdesigns@hotmail.com
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Liên lạc 104