20.01.2015 Views

Hãy bấm vào đây để tải về toàn văn (PDF; 2,78MB) - Hội đập lớn

Hãy bấm vào đây để tải về toàn văn (PDF; 2,78MB) - Hội đập lớn

Hãy bấm vào đây để tải về toàn văn (PDF; 2,78MB) - Hội đập lớn

SHOW MORE
SHOW LESS

You also want an ePaper? Increase the reach of your titles

YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.

Bản đồ này biểu thị tỷ lệ phần trăm dân số từ 5 tuổi trở xuống trên tổng dân số. Mầu vàng và xanh nhạt biểu<br />

thị nơi có tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở xuống ở dưới mức bình quân chung của cả nước. Mầu xanh thẫm hơn biểu thị tỷ<br />

lệ cao hơn mức bình quân chung. Nhìn chung tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở xuống của cả nước là 11,6%.<br />

Bản đồ này cho thấy mô hình rất khác biệt về sự phân bố theo không gian tỷ lệ dân số thuộc nhóm tuổi này<br />

trên tổng dân số: châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, và trong chừng mực nhất định, vùng ven biển có tỷ trọng<br />

dân số dưới 5 tuổi khá thấp. Ngược lại, các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và miền núi cao của một số tỉnh<br />

khác, những nơi trên bản đồ thể hiện bằng mầu xanh công nhân nhạt hoặc sẫm, có tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở xuống<br />

cao nhất. Có không ít khu vực, nơi có màu xanh công nhân sẫm, có tỷ trọng dân số dưới 5 tuổi chiếm hơn một phần<br />

năm dân số (trên 20%), tức là gần gấp đôi mức chung của toàn quốc.<br />

Rõ ràng là tỷ lệ lớn dân số 5 tuổi trở xuống tương ứng với mức sinh cao nhưng trong chừng mực nào đó nó<br />

cũng có thể phản ánh tuổi thọ bình quân chung thấp hơn ở vùng có tỷ lệ dân số trẻ hơn cao hơn mà ngẫu nhiên cũng<br />

là vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất cả nước. Mối quan hệ hai chiều giữa nghèo và tỷ lệ sinh cao (so sánh bản đồ 7.01)<br />

được minh hoạ rõ nét trên bản đồ này.<br />

Hơn nữa, những nơi có mức sinh cao thường là những nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người cư trú. Trình độ<br />

dân trí thấp của đồng bào dân tộc thiểu số thường kéo theo sự hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai còn hạn<br />

chế. Ngoài ra tỷ lệ sinh cao nhất ở nơi có mật độ dân số thấp nhất (xem bản đồ 2.02) hàm ý mức độ tiếp cận hạn chế<br />

của chương trình kế hoạch hoá gia đình tại các vùng này.<br />

Bản đồ 2.04: Dân số 65 tuổi trở lên<br />

Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 1999, tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên của cả nước là 5,8%. Màu vàng<br />

và xanh nhạt thể hiện vùng có tỷ lệ người cao tuổi thấp hơn mức bình quân chung của cả nước trong khi đó màu xanh<br />

thẫm hơn chỉ ra vùng có tỷ lệ người cao tuổi cao hơn mức bình quân chung của cả nước.<br />

Vùng đồng bằng sông Hồng, phần lớn khu vực ven biển của các tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ và khu vực phía Bắc<br />

của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên cao nhất, chiếm từ 6 đến 8%, thậm chí trên<br />

8%. Một số khu vực ở phía Tây Bắc TPHCM và khu vực Đông Bắc của vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng có tỷ trọng<br />

dân số 65 tuổi trở lên ở mức 6 đến 8%.<br />

Mặt khác, hầu hết vùng Tây Nguyên và một số khu vực của Bình Phước, Ninh Thuận và Bình Thuận, tỉnh Cà<br />

Mau thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cũng như các tỉnh Lào Cai, Lai Châu ở Đông Bắc và Tây Bắc có nhiều màu<br />

vàng, tức là nơi có tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên ở mức dưới 3%, chỉ bằng nửa mức chung của cả nước. Điều này<br />

có thể là do cả hai yếu tố: tuổi thọ của dân số thấp và ảnh hưởng của dòng người di cư đến khu vực này trong nhiều<br />

năm trước Tổng điều tra (trong số những người di cư, người trẻ tuổi chiếm ưu thế tuyệt đối).<br />

Ghép hai bản đồ 2.03 và 2.04 với nhau ta được một bức tranh khá thú vị: tỷ lệ dân số 5 tuổi trở xuống cao ở<br />

vùng có tỷ lệ dân số 65 tuổi trở lên thấp. Điều này tất nhiên có thể được lý giải phần lớn bởi thực tế là tỷ lệ sinh cao<br />

hơn ở vùng có dân số trẻ hơn và ngược lại, tỷ lệ sinh thấp hơn ở vùng có dân số già hơn.<br />

Bản đồ 2.05: Tỷ số giới tính<br />

Tỷ số giới tính cho biết số nam trên 1 nữ của dân số. Nhìn chung tỷ số giới tính lớn hơn 1 khi sinh sau đó giảm<br />

dần theo lứa tuổi và có giá trị khoảng 1 trong thời kỳ sinh sản và dưới 1 khi nhiều tuổi hơn. Theo số liệu Tổng điều tra<br />

1999, tỷ số giới tính của cả nước là 0,96, tức là cứ 100 nữ thì có 96 nam. Nói chung, tỷ số giới tính của dân số Việt<br />

Nam nhỏ hơn 1 và thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ số giới tính của nước ta thấp là do hậu quả trực tiếp của nam<br />

chết nhiều hơn nữ trong các cuộc kháng chiến từ những năm 1940 đến 1975. Số người sinh ra sau chiến tranh ngày<br />

càng chiếm tỷ trọng lớn so với những người thuộc thế hệ sinh ra trong chiến tranh, nên tỷ số giới tính tăng dần. Vào<br />

năm 1979, tỷ trọng giới tính của Việt Nam là 0,94. Đến năm 1999, tỷ số đó đã tăng lên đến 0,96.

Hooray! Your file is uploaded and ready to be published.

Saved successfully!

Ooh no, something went wrong!