52 Các loài vi khuẩn sinh trưởng tại vết thương bỏng phụ thuộc vào: các thời kỳ tiến triển của vết thương bỏng, tính chất hoại tử bỏng, diện tích bỏng sâu, vị trí của vết thương bỏng, cách chữa trị tại chỗ và toàn thân. Trong thời gian đầu, vi khuẩn có ở bề mặt vết bỏng và trong những ống nang tuyến, gốc lông, rồi chúng có trong đám hoại tử bỏng và xâm nhập xuống tận viền ranh giới giữa phần mô chết và phần mô lành. Chúng tiếp tục xâm nhập sâu vào vùng mô lành và từ đó vào thành các vi mạch gây hiện tượng viêm và gây huyết tắc các vi mạch tiến triển mà hậu quả là hoại tử thứ phát tiến triển trên các mô. Với một lượng lớn vi khuẩn trên 10 6 vi khuẩn/g mô và sự xâm nhập sâu tới thành mạch bắt đầu cho trạng thái nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn toàn thân. Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập và lưu hành trong máu, sinh trưởng và tiết ra các độc tố, men và một số sản phẩm phụ để kích hoạt và gây hại cho mô - tế bào, các cơ quan của cơ thể. 1.4.4 Điều trị bỏng Tùy theo tính chất và thời gian tiến triển của vết thương bỏng mà có những phương pháp điều trị khác nhau. Các loại thuốc dùng tại vết thương bỏng: o Thuốc làm rụng hoại tử bỏng: các men phân hủy protein, các thuốc hóa chất, acid không mạnh. o Các thuốc làm bớt phù nề mô hạt: nước muối sinh lý ưu trương, dung dịch hydrocostison. o Các thuốc kháng khuẩn, sát khuẩn: acid boric, acid acetic, nitrat bạc, cosilin… o Các thuốc ảnh hưởng tốt đến quá trình tái tạo vết bỏng: thuốc mỡ như dầu gan cá thu, thuốc mỡ Madecassol… o Các thuốc làm se khô và tạo màng che phủ vết thương bỏng mới: phổ biến là dùng Tanin, cao đặc của vỏ sơn trà, cao đặc lá sim… o Các thuốc có tác dụng sinh học điều trị tại chỗ vết bỏng, vết thương: Biafine, Chitosan…
53 o Các vật liệu sinh học có tác dụng che phủ tạm thời vết thương: màng nhau, da tử thi, da dị loại (như da ếch, da lợn), màng sinh học (như Biobrane, Integra, Collagen, vải carbon).