Chương 1 - Trang chủ
Chương 1 - Trang chủ Chương 1 - Trang chủ
11 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN
- Page 2 and 3: 1.1 Cây long não 1.1.1 Phân lo
- Page 4 and 5: 14 1.1.1.3 Phân loại theo thành
- Page 6 and 7: 16 Ở Trung Quốc có 3 chemotype
- Page 8 and 9: 18 long não phân bố tới độ
- Page 10 and 11: 20 thành từng đoạn rồi đem
- Page 12 and 13: Hình 1.3 Biểu diễn đường t
- Page 14 and 15: 24 - Khi vi sóng chạm tới vậ
- Page 16 and 17: 26 Đầu tiên, long não được
- Page 18 and 19: 1.3.2 Phân loại tinh dầu long
- Page 20 and 21: 30 Bảng 1.1 Đặc tính của nh
- Page 22 and 23: 32 Bảng 1.5 So sánh hàm lượn
- Page 24 and 25: 34 Bảng 1.7 Thành phần hóa h
- Page 26 and 27: 36 - Những cây phát triển t
- Page 28 and 29: 1.3.3.4 Tinh dầu lá long não T
- Page 30 and 31: Stt Cấu phần 40 Bảng 1.13 Th
- Page 32 and 33: 42 Bảng 1.15 Thành phần hóa h
- Page 34 and 35: Stt Cấu phần 44 Bảng 1.18 Th
- Page 36 and 37: 46 Bảng 1.20 Thành phần hóa h
- Page 38 and 39: 48 45 1.05 1.30 2.35 50 1.10 1.30 2
- Page 40 and 41: 50 biểu hiện bằng các hội
- Page 42 and 43: 52 Các loài vi khuẩn sinh trư
11<br />
CHƯƠNG 1<br />
TỔNG QUAN
1.1 Cây long não<br />
1.1.1 Phân loại<br />
1.1.1.1 Phân loại thực vật [5,45]<br />
Lớp: Song tử diệp<br />
Họ: Lauraceae<br />
Thực vật: Đa niên<br />
12<br />
Tên thông thường: Long não, Chương não,<br />
Triều não, Não tử,<br />
Hon-Sho, camphor tree.<br />
Giới Plantae<br />
Giới phụ Tracheobionta - Thực vật có mạch<br />
Trên ngành Spermatophyta - Thực vật có hạt<br />
Hình 1.1 Cây long não ở Nhật Bản [46]<br />
Ngành Magnoliophyta - Thực vật có hoa<br />
Lớp Magnoliopsida - Thực vật hai lá mầm<br />
Lớp phụ Magnoliidae<br />
Bộ Laurales<br />
Họ Lauraceae - Long não<br />
Giống Cinnamomum<br />
Loài camphora (L.) Presl<br />
Năm 1753, Long não được Carl Linnaeus tìm ra đầu tiên và đặt tên là Laurus<br />
camphora L.. Năm 1825, J. Presl đặt tên lại cho cây là Cinnamomum camphora (L.)<br />
Presl cho phù hợp hơn và được thế giới công nhận. Năm 1831, C. H. Eberm và T.<br />
Nees đặt tên cây là Cinnamomum camphora ( L.) Nees & Eberm. Do tên thực vật<br />
Cinnamomum camphora (L.) Presl được công bố sớm nên được công nhận là tên<br />
chính thức. [48]<br />
Ngoài hai tên chính thức vừa nêu, trong quá trình nghiên cứu tài liệu, chúng<br />
tôi thấy có một số tên gọi khác, thí dụ như Cinnamomum camphora Sieb. [15] ,
13<br />
Cinnamomum camphora (L.) Sieb. var. linaloolifera [20] do một số tác giả đặt ra<br />
nhưng chưa được công nhận.<br />
1.1.1.2 Đồng nghĩa [46]<br />
Ngôn ngữ Đồng nghĩa<br />
Tiếng Anh Camphor tree, camphor, Japanese camphor<br />
Tiếng Pháp Camphre, camphrier<br />
Tiếng Đức Campher, Kampferbaum<br />
Tiếng Hindi<br />
Kapoor, Kapur, Karpur, Karpuram, Karpoora, Mushkapur,<br />
Pacchakarpuram<br />
Tiếng Ý Albero della canfora, Canfora, Canforo, Lauro canforo<br />
Tiếng Hoa Xiang zhang shu, Zhang, Zhang shu<br />
Tiếng Miến Điện Payok, Payuk<br />
Tiếng Nhật Kusunoki<br />
Tiếng Kannada Karpura<br />
Tiếng Hàn Nok na mu<br />
Tiếng Malayalam Cutakkarpuram, Karpuram, Subhramsu<br />
Tiếng Nepal Kapuur<br />
Tiếng Bồ Đào Nha Arvore da camphora (árvore-da-camphora).<br />
Камфорный лавр Kamfornii lavr, Камфорное<br />
Tiếng Nga дерево Kamfornoe derevo, Коричник<br />
Tiếng Tamil<br />
камфорный Korichnik kamfornii.<br />
Karpuram.<br />
Tiếng Telugu Karpuramu, Pacca karpuram<br />
Tiếng Thái<br />
การบูร Karabun, อบเชยญวน Op choei yuan (Central<br />
Thailand), พรมเส็ง Phrom seng (Shan - Northern Thailand)<br />
Tiếng Urdu Kafur, Patckafur<br />
Medieval Latin Camphora<br />
Tiếng Ả Rập k f r<br />
Tiếng Malaysia kapur, kāpūr chalk
14<br />
1.1.1.3 Phân loại theo thành phần hóa học của tinh dầu<br />
Những nghiên cứu sâu về tinh dầu long não cho thấy camphor là một cấu<br />
phần chính của cây long não, song không phải là duy nhất. Các cây long não có thể<br />
giống nhau về mặt hình thái, song lại có thành phần hóa học trong tinh dầu rất khác<br />
nhau. Từ đó người ta đã phải áp dụng cách phân loại dựa trên thành phần hóa học<br />
(chemotaxonomy) để phân loại chúng, bổ sung cho những hạn chế của cách phân<br />
loại dựa trên hình thái thực vật.<br />
Năm 1951, Hirota đề nghị sự phân chia thành các thứ dựa trên thành phần<br />
hoá học của tinh dầu [27]<br />
1. Subspecies eucamphor Hirota<br />
2. Subspecies formosana Hirota<br />
Var. occidentalis Hirota<br />
Subvar. eucamphor<br />
Subvar. cineol<br />
Subvar. safrol<br />
Subvar. sesquiterpen<br />
Subvar. linalol<br />
Subvar. linaloid<br />
Var. orientalis Hirota<br />
Subvar. eucamphor<br />
Subvar. cineol<br />
Subvar. safrol<br />
Subvar. sesquiterpen<br />
Subvar. linalol<br />
Subvar. linaloid<br />
Subvar. borneol<br />
3. Subspecies newzealandia Hirota<br />
Var. eucamphor<br />
Var. cineol
15<br />
Theo Guenther ở Nhật Bản chỉ thấy một chemotype long não C. camphora<br />
Sieb. [15,49] gọi là cây Hon-Sho có tinh dầu chứa chủ yếu là camphor. Tuy nhiên cây<br />
này xuất hiện dưới hai dạng được phân biệt bởi màu của các chồi non ở thời gian<br />
các cây mọc chồi mới:<br />
Dạng 1 (khoảng 80%): các chồi non có màu đỏ.<br />
Dạng 2 (khoảng 20%): các chồi non có màu xanh.<br />
Các cây dạng 2 mọc nhanh và chứa nhiều camphor hơn dạng 1. Song<br />
khi chồi đã trưởng thành, thì màu của dạng 1 biến thành màu xanh và sự khác nhau<br />
không còn nhận ra nữa. [24]<br />
Ở Đài Loan, cây long não có 2 chemotype khác nhau. Một trong số đó (cây<br />
Kusunoki) lại chia nhỏ thành 3 dạng tùy thuộc vào thành phần hoá học tinh dầu.<br />
Các chemotype là: [16]<br />
1. Kusunoki (C. camphora) gồm 3 dạng:<br />
a. Hon-Sho : (Hon = thật, Sho = cây long não) là chemotype<br />
long não quan trọng nhất ở Đài Loan. Về mặt hình thái, cây này giống hệt cây Hon-<br />
Sho ở Nhật Bản. Cấu phần chính trong tinh dầu cây Hon-Sho là camphor.<br />
b. Ho-Sho : (Ho = thơm ngát, Sho = long não) cấu phần chính<br />
của cây là linalol. Y. Furita phân loại cây Ho-Sho là C. camphora var.<br />
linaloolifera. [22]<br />
c. Yu-Sho : (Yu = dầu) cấu phần chính của cây là cineol.<br />
2. Rau-Kusu (C. camphora var. nominale Hayata) là chemotype long<br />
não đặc biệt về mặt hình thái, xuất hiện dọc bờ biển phía đông của Đài Loan. Cây<br />
Rau-Kusu có 5 chemotype khác nhau:<br />
- Chemotype 1: Tinh dầu chứa 78% camphor.<br />
- Chemotype 2: Tinh dầu chứa 59% cineol.<br />
- Chemotype 3: Tinh dầu chứa 87% safrol.<br />
- Chemotype 4: Tinh dầu chứa 85% linalol.<br />
- Chemotype 5: Tinh dầu chứa toàn sesquiterpen.
16<br />
Ở Trung Quốc có 3 chemotype long não: long não dầu (chủ yếu cineol), long<br />
não thật (chủ yếu camphor) và long não thơm (chủ yếu linalol). Khoảng 90% số cây<br />
là long não dầu, chỉ có 2-3% long não thật, từ 4-5% là long não thơm. [16]<br />
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Phạm Văn Khiển có thể chia cây long não<br />
thành 6 chemotype dựa trên thành phần hóa học như sau: [1]<br />
74%).<br />
Chemotype 1: Cấu phần chính tinh dầu từ gỗ thân và lá là camphor (67%-<br />
Chemotype 2: Cấu phần chính tinh dầu từ gỗ thân là camphor, nhưng tinh<br />
dầu lá là sesquiterpen (50%-70%).<br />
Chemotype 3: Cấu phần chính tinh dầu từ gỗ thân là camphor (khoảng<br />
43%) và cineol (khoảng 25%), nhưng tinh dầu lá là sesquiterpen (55% - 75%).<br />
Chemotype 4: Cấu phần chính tinh dầu từ gỗ thân là cineol (khoảng 42%)<br />
và camphor (khoảng 27%), nhưng tinh dầu lá là cineol (khoảng 53%).<br />
Chemotype 5: Cấu phần chính tinh dầu từ gỗ thân và lá là linalol (khoảng<br />
60% - 90%).<br />
Chemotype 6: Cấu phần chính tinh dầu từ lá là phelandren (khoảng 70%).<br />
1.1.2 Mô tả thực vật [5,6]<br />
Long não là loại cây gỗ lớn, thường xanh, có mùi thơm, cao 15 - 30 m. Đoạn<br />
thân không phân cành cao từ 3-8 m, có khi tới 10 m, đường kính thân 40 - 60 cm, có<br />
khi đạt tới 90 cm.<br />
Hệ thống rễ không ăn sâu nhưng lại phát triển mạnh theo chiều rộng, bạnh<br />
gốc thấp và mập. Vỏ ngoài màu nâu xám, thường nứt dọc thành rãnh sâu. Tán cây<br />
rậm và to, đường kính tán đạt từ 10 - 30 cm.<br />
Cành thường nhẵn, màu nâu, cành non có màu vàng nhạt hoặc hồng nhạt.<br />
Chồi có dạng hình trứng, mập, phủ lông mềm, có nhiều vảy nhỏ sắp xếp lên nhau.<br />
Lá đơn mọc cách, có mùi thơm, cuống lá mảnh, dài 1,5 - 3,0 cm; phiến lá<br />
mỏng, hình bầu dục hay hình mác, kích thước 5 - 12 x 2 - 7 cm, gốc lá tù, chóp lá<br />
nhọn hoặc vuông nhọn, mép lá nguyên hoặc hơi gợn sóng, xanh đậm, bóng và nhẵn<br />
ở mặt trên, nhẵn hoặc rải rác có lông mịn ở mặt dưới; có mùi thơm; có ba gân chính
17<br />
ở gốc nổi rõ trên cả hai mặt lá, các gân bên hình lông chim, có hai tuyến xen kẽ ở<br />
gốc giữa ba gân chính.<br />
Hình 1.2 Cấu tạo hoa long não<br />
1. Cành mang hoa long não; 2. Hoa; 3. Mặt cắt dọc của hoa;<br />
4. Nhị đực với hai tuyến gốc; 5. Quả [16]<br />
Cụm hoa hình chùy mọc ở nách lá hay ở tận cùng, dài tới 7 cm; cuống hoa<br />
dài 1 - 1.5 mm, nhẵn, hoa lưỡng tính; bao hoa hình ống ngắn, sáu thùy, có lông màu<br />
nâu nhạt; có 9 nhị, sắp xếp theo ba vòng, tuyến vòng 1 và 2 có bao phấn hình<br />
vuông, dài 0.5 mm, hướng vào trong; vòng 3 hầu như không có, tuyến hình trứng tại<br />
các bao phấn nền tảng và hướng ngoại; bầu hình trứng, nhẵn, vòi nhụy hình trụ<br />
ngắn.<br />
Quả mọng, nhỏ, có hình cầu đường kính 7 - 10 mm, khi non có màu xanh<br />
lục, khi chín có màu tím đen; một hạt, hạt có kích thước 6 - 7 mm.<br />
1.1.3 Phân bố [5,6]<br />
Long não mọc nhiều nhất ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan.<br />
Long não phân bố tự nhiên trong các khu rừng nguyên sinh, nhưng chúng<br />
vẫn sinh trưởng, phát triển bình thường trên đất trồng, đồi núi trọc. Trong tự nhiên,
18<br />
long não phân bố tới độ cao 3000 m trên mặt biển, nhưng thích hợp nhất là từ 1000<br />
m trở xuống.<br />
Ở nước ta, long não sinh trưởng rất tốt trên nhiều khu vực, từ đồng bằng đến<br />
miền núi cao (1500 m). Nhiều quần thể long não với những cây rất lớn, lâu năm đã<br />
được thiết lập rải rác bởi người Pháp trước đây tại nhiều nơi ở nước ta (miền núi<br />
phía Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ).<br />
Ở Việt Nam, long não được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc như Hà Giang,<br />
Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Cao Bằng, Lạng Sơn. Ngay tại nhiều đường<br />
phố Hà Nội cũng trồng để lấy bóng mát.<br />
Long não ưa đất tốt, lớp đất mặt sâu, dày, nhiều mùn, ẩm, nhưng vẫn có thể<br />
sinh trưởng bình thường trên các vùng đồi, đất feralite nghèo dinh dưỡng, cằn cỗi<br />
hoặc đất bạc màu. Long não chịu lạnh khỏe, nhưng chịu sương muối và gió lào<br />
kém. Các loại đất alkaline từ nhẹ tới trung bình với độ pH 5-8 rất thích hợp cho việc<br />
gây trồng long não thành những khu rừng thuần.<br />
Nhìn chung thì long não sinh trưởng tốt và thích hợp nhất với điều kiện ấm,<br />
ở các vùng có khí hậu cận nhiệt đới, nhưng vẫn sinh trưởng bình thường ở các khu<br />
vực núi cao trong vùng nhiệt đới. Những cây long não trưởng thành có thể chịu<br />
được điều kiện lạnh giá tới -5 o C, còn các cây nhỏ thường bị chết rét.<br />
1.1.4 Trồng trọt, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh [16]<br />
Long não hiện vẫn được nhân giống chủ yếu bằng hạt. Cũng có thể nhân<br />
giống long não bằng biện pháp sinh sản vô tính như trồng bằng các hom lấy từ cành<br />
hoặc rễ, hoặc những chồi non mọc lên từ rễ.<br />
Sau khi thu hái, quả long não chín cần ngâm nước, chà xát, loại bỏ hết thịt<br />
quả, rửa sạch, chọn những hạt chắc, mập và hong khô nhẹ trong bóng mát 1-2 ngày<br />
rồi bảo quản trong cát, trấu hoặc mùn cưa ẩm (tốt nhất là trong cát ẩm 60-70%).<br />
Hạt long não nhỏ, khối lượng của 1000 hạt thường vào khoảng 160-180 g.<br />
Hàm lượng nước trong hạt long não cao, để mất nước thì sức nảy mầm kém, tỷ lệ<br />
nảy mầm của hạt thấp và sức sống kém. Có thể gieo ngay hoặc bảo quản trong thời<br />
gian ngắn, nếu để lâu thì hạt sẽ mất khả năng nảy mầm. Vì sức sống của hạt kém, ở
19<br />
điều kiện bảo quản thuận lợi, hạt long não có thể giữ được sức nảy mầm trong vòng<br />
6 tháng.<br />
Tốt nhất là lấy hạt và gieo ngay trong mùa đông hoặc cất giữ để gieo vào đầu<br />
mùa xuân. Sau khi gieo cần che phủ bằng rơm, rạ hay cỏ khô và tưới đều, bảo đảm<br />
cho đất đủ ẩm. Mỗi m 2 chỉ gieo 130-150 hạt, khi cây đạt độ cao 10 cm thì phải tỉa<br />
bớt, chỉ để lại chừng 50-60 cây/m 2 . Các cây con thời kỳ 12-24 tháng tuổi là có thể<br />
đem trồng trên diện tích đại trà. Mật độ trồng trung bình 2000-2500 cây/ha. Long<br />
não sinh trưởng nhanh, khép tán sớm nên có thể trồng cây dày hơn rồi tỉa thưa dần.<br />
Trong 4-7 năm đầu, cần quan tâm làm cỏ, xới đất, vun đất, bón phân, đặc<br />
biệt là năm thứ nhất và thứ hai. Trường hợp gieo hạt thẳng thì số lần chăm sóc cần<br />
nhiều hơn. Các quần thể long não trồng để lấy lá cần hạn chế chiều cao, nên cắt<br />
ngọn khi cây đạt độ cao 1.5-2 m.<br />
Long não nói chung thường ít bị bệnh. Trong vùng nhiệt đới châu Á mới gặp<br />
từng cây long não riêng biệt có thể bị bệnh thối rễ do nấm Clitocybe tabescens gây<br />
ra. Bệnh xém lá cũng có thể xuất hiện do nấm Glomerella cingalata. Sử dụng các<br />
loại thuốc diệt nấm quen thuộc như “benlate” cũng có tác dụng tốt.<br />
Tại hầu hết các khu vực trồng long não ở vùng nhiệt đới châu Á thường gặp<br />
các loại sâu ăn lá như Acrocercops ordinatella, Attacus atlas, Euproctis lunata,<br />
Suana concolor và Dictyoploca japonica. Sâu trưởng thành và ấu trùng của bọ da<br />
(Leucopholis pingus) đã gây hại những cây long não non ở vườn ươm tại một số<br />
khu vực châu Á. Mọt lúa (Cratopus punctum) là loại côn trùng ăn lá nguy hiểm đã<br />
gặp ở Mauritus.<br />
1.1.5 Thu hái và sử dụng [5,16]<br />
Trước kia, người ta thường thu hái lá và gỗ đồng thời với việc chặt hạ cây<br />
long não trong rừng tự nhiên. Trong trồng trọt để lấy tinh dầu, các quần thể long<br />
não cũng được khai thác theo từng đợt, cách nhau 16-20 năm. Sau khi chặt hạ, các<br />
chồi mới từ gốc lại mọc ra và sinh trưởng rất nhanh.<br />
Thường khi dùng gỗ long não để chưng cất tinh dầu, người ta thường đốn hạ<br />
các cây trên 25 năm tuổi. Các bộ phận của cây như rễ, thân, nhánh sẽ được chặt
20<br />
thành từng đoạn rồi đem về nhà máy sản xuất. Khi nguyên liệu được đem về nhà<br />
máy, sẽ được bào nhỏ rồi mới cho vào nồi chưng cất.<br />
Thu hái lá để chưng cất tinh dầu được tiến hành hằng năm. Tại Nhật Bản,<br />
người ta thường thu hái lá long não vào thời gian giữa tháng 10 và tháng 3, thu hái 2<br />
lần trong năm. Những nơi trồng long não lấy lá để chưng cất tinh dầu như Ấn Độ,<br />
Sri-Lanka thường thu hoạch đều đặn 4 lần trong một năm.<br />
Việc thu hái lá long não chủ yếu vẫn bằng tay và các công cụ đơn giản (dao,<br />
kéo…). Nhiều thiết bị cơ khí cũng đã được thử nghiệm, song vẫn còn những hạn<br />
chế cần được cải tiến.<br />
Hầu hết khắp nơi trên thế giới, cây long não được xem như là một cây cảnh<br />
cho bóng mát. Một loài cây long não, có tên gọi là Majestic Beauty, là loại cây mọc<br />
thẳng, có lá lớn và màu xanh đậm, là một loại cây trồng cho bóng mát trên những<br />
đại lộ.<br />
Gỗ long não Trung Quốc có giá trị lớn vì không bị nứt nẻ và hư hỏng, và<br />
ngăn chặn được sự tấn công của sâu bọ, chống sâu bướm. Chính vì vậy, loại gỗ này<br />
chủ yếu được dùng để làm tủ gỗ hay những sản phẩm như rương cất giữ đồ đạc,<br />
quần áo. Gỗ này còn được dùng để lót sàn, nhưng ngày nay nó rất đắt tiền.<br />
Ngoài ra, người ta còn sử dụng các bộ phận của cây long não (rễ, thân, gỗ,<br />
vỏ, lá, hạt) đem chưng cất hơi nước để thu lấy tinh dầu long não và chưng cất phân<br />
đoạn để thu được các phân đoạn khác nhau của dầu long não như: camphor tinh thể,<br />
tinh dầu long não trắng (chứa nhiều 1,8-cineol), tinh dầu long não nâu (chứa chủ<br />
yếu là safrol), tinh dầu long não xanh (chủ yếu là các sesquiterpen, sesquiterpen<br />
alcol, và azulen).<br />
1.1.6 Tác dụng dược lý và công dụng<br />
1.1.6.1 Theo y học cổ truyền [6]<br />
Long não có vị cay, tính nóng, quy kinh Tâm Tỳ; có tác dụng: trừ thấp sát<br />
trùng, ôn tán hàn chỉ thống, khai khiếu trừ uế; chủ trị các chứng ghẻ lở, cước khí<br />
sưng đau, đau răng, té ngã đau.
1.1.6.2 Theo y dược hiện đại [7,16]<br />
21<br />
Long não cho nhiều sản phẩm có giá trị sử dụng cao như camphor, tinh dầu<br />
long não, gỗ và ngay cả khi cây đang tồn tại đã có giá trị rất lớn về môi trường.<br />
Camphor được dùng ngoài da làm thuốc sát trùng, tiêu viêm, kích thích (dưới<br />
dạng cồn hay dầu 5-10%). Dùng trong cơ thể dưới dạng thuốc tiêm dầu (pha trong<br />
dầu thảo mộc) hay nước (dạng muối camphorsulfonat natrium) để hồi tĩnh cơ tim,<br />
chữa trụy tim mạch hay suy nhược, hoặc dùng để uống chữa đau bụng.<br />
Camphor và tinh dầu long não là một trong những thành phần chính của<br />
phần lớn các loại dầu xoa, cao xoa và được dùng trong nhiều chế phẩm khác. Trong<br />
danh mục thuốc thống nhất toàn ngành của Bộ Y Tế (in lần thứ 2, năm 1982) có ghi<br />
14 chế phẩm có chứa camphor, trong đó có 5 (trong số 8) loại cao xoa, dầu xoa, 5<br />
loại thuốc điều trị bệnh ỉa chảy, 2 loại thuốc trợ tim, 1 loại thuốc xoa bóp và 1 loại<br />
thuốc đau răng.<br />
Camphor còn được dùng làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chất<br />
dẻo, làm ngà voi nhân tạo, công nghiệp cao su, công nghiệp quốc phòng (làm thuốc<br />
súng không khói…), trong nông nghiệp dùng để kích thích hạt nảy mầm.<br />
Tinh dầu long não (phần đã lấy hết camphor) được dùng làm nguyên liệu cho<br />
công nghiệp hương liệu (nước hoa, xà phòng…)<br />
1.2 Vài nét về vi sóng [28]<br />
1.2.1 Lí thuyết về vi sóng<br />
Khái niệm vi sóng: Vi sóng (microwave, micro-onde) là sóng cực ngắn, hay<br />
gọi là sóng siêu tần, hay sóng UHF (Ultra High Frequence wave).<br />
Trong phổ điện từ (Electromagnetic Spectrum) vi sóng nằm ở khoảng giữa<br />
phổ, từ tần số 0.3 GHz (300 MHz hay 3.10 8 Hz) đến 300 GHz (hay 3.10 11 Hz) tương<br />
ứng độ dài sóng trong khoảng 100 cm đến 1 cm, do đó vi sóng còn được gọi là sóng<br />
cm.
Hình 1.3 Biểu diễn đường truyền của vi sóng trong điện trường<br />
trong đó:<br />
E: cường độ điện trường<br />
Ң : cường độ từ trường<br />
22<br />
: chiều dài sóng (12.2 cm - 2450 MHz)<br />
c: vận tốc ánh sáng trong chân không 300000 km/s<br />
Biểu thức tính bước sóng của sóng điện từ:<br />
c<br />
<br />
f<br />
f: tần số (Hertz), tần số f càng lớn thì độ dài sóng càng nhỏ<br />
f (MHz) (cm)<br />
27.12 11.05<br />
915 37.24<br />
2450 12.22<br />
Trong lĩnh vực ISM (Industrielles Scientifiques et Médicales) qui ước chỉ sử<br />
dụng các loại vi sóng có tần số 27.12; 915; 2450 MHz. Trong các tần số trên, tần số<br />
2450 MHz được sử dụng rộng rãi nhất. Tần số 915 MHz được ISM cho phép sử<br />
dụng ở Mỹ, còn ở Pháp cũng có thể được dùng nhưng phải có giấy phép.<br />
Lò vi sóng gia dụng, phòng thí nghiệm thường sử dụng f = 2450 MHz, f này<br />
còn được dùng trong kỹ nghệ nông sản, thực phẩm. Sự giới hạn tần số nhằm ngăn<br />
ngừa sự gây trở ngại những tần số dành cho ngành truyền thông.
23<br />
- Những thiết bị vi sóng (theo ISM) không cho phép một sự thất thoát về vi sóng<br />
vượt quá 40 db V/m đo ở khoảng cách 30 m bên ngoài vách nơi chứa.<br />
- Năng lượng của vi sóng là năng lượng điện từ.<br />
Năng lượng của photon vi sóng rất thấp, tại 2450 MHz năng lượng của<br />
photon của vi sóng vào khoảng 0.00001 eV (0.037 kcal/mol).<br />
Trong khi đó năng lượng của một nối hóa học vào khoảng 80-120 kcal/mol.<br />
Thí dụ: H-OH là 4.8 eV; CH3-CH3 là 3.61 eV; nối hidrogen là 0.04-0.44 eV<br />
Do đó vi sóng không ảnh hưởng đến cơ cấu phân tử hợp chất hữu cơ (cắt đứt<br />
nối). Vi sóng kích thích phân tử hữu cơ thuần túy về động học (quay phân tử).<br />
1.2.2 Đặc tính của vi sóng<br />
- Xuyên qua được không khí, gốm sứ, thủy tinh, polimer…<br />
- Phản chiếu trên bề mặt kim loại.<br />
- Lan truyền được trong chân không, áp suất cao.<br />
Hình 1.4 Đặc tính của vi sóng đối với nước, kim loại và teflon<br />
- Vô hại đối với sinh vật, vi sóng chỉ có tác dụng làm tăng nhiệt độ. Chẳng<br />
hạn khi nghiên cứu tác động của enzim dưới sự hỗ trợ của vi sóng người ta nhận<br />
thấy rằng ảnh hưởng của vi sóng tương tự như các sự cung cấp nhiệt khác (vi sóng<br />
không ảnh hưởng làm thay đổi cơ cấu sinh vật nhưng trong cơ thể sinh vật có nước,<br />
nước hấp thu vi sóng dẫn tới làm nóng lên, do đó vi sóng ảnh hưởng gián tiếp).
24<br />
- Khi vi sóng chạm tới vật liệu, một phần năng lượng của nó bị phản xạ trở<br />
lại, một phần đáng kể hơn sẽ bị vật liệu hấp thu. Năng lượng này chuyển hóa thành<br />
nhiệt lượng và giảm dần khi nó truyền đi trong vật liệu.<br />
1.2.3 Nguyên tắc làm nóng vật chất của vi sóng<br />
- Sự đun nóng bằng vi sóng là một tiến trình làm tăng nhiệt của vật chất một<br />
cách đặc biệt. Tiến trình làm nóng này không phụ thuộc vào sự dẫn nhiệt của bình<br />
chứa và vật chất. Sự tăng nhiệt độ của vật chất cục bộ tức thời là do sự quay lưỡng<br />
cực và sự dẫn truyền ion . Đó là 2 cơ chế cơ sở của sự chuyển năng lượng từ vi sóng<br />
sang vật chất được đun.<br />
- Nhiệt sinh ra do sự dẫn truyền ion là kết quả của sự tăng trở kháng của môi<br />
trường chống lại sự dịch chuyển của các ion trong trường điện từ.<br />
- Cơ chế quay lưỡng cực là quá trình thay đổi hướng của phân tử phân cực<br />
theo chiều của điện trường.<br />
Thí dụ: f = 2450 MHz, điện trường E của vi sóng đổi chiều 4,9.10 9 lần.<br />
Dưới tác động của điện trường, các phân tử lưỡng cực có khuynh hướng sắp<br />
xếp theo chiều điện trường. Do đó trong điện trường xoay chiều, f rất lớn (MHz) sẽ<br />
gây ra sự xáo trộn ma sát với vận tốc lớn giữa các phân tử, đó là nguồn gốc sự nóng<br />
lên của vật chất, nhiệt độ tăng lên rất nhanh (khoảng 10 o C/phút).<br />
Hình 1.5 Cách sắp xếp của phân tử trong điện trường.<br />
- Ưu điểm của đun nóng bằng vi sóng:<br />
1. Không có quán tính nhiệt.<br />
2. Năng lượng sạch, dễ tạo ra, dễ kiểm soát.<br />
3. Nhanh chóng.
25<br />
4. Có tác dụng đặc biệt với các phân tử phân cực (càng phân cực càng<br />
mau nóng).<br />
5. Chọn lọc, nhanh chóng, trực tiếp<br />
→ Sự đun nóng bằng vi sóng chọn lọc, nhanh chóng, đồng đều.<br />
Việc này có liên quan đến hằng số điện môi của hợp chất đó.<br />
- Vi sóng kích hoạt những phân tử phân cực, đặc biệt là nước. Với một cơ<br />
cấu có độ bất đối xứng cao, phân tử nước có độ phân cực mạnh, do đó nước là một<br />
chất lý tưởng dễ đun nóng bằng vi sóng.<br />
- Nước bị đun nóng bởi sự hấp thu vi sóng và bốc hơi, tạo ra áp suất cao tại<br />
nơi bị tác dụng, việc này làm cho nước di chuyển từ tâm của vật chất ra đến bề mặt<br />
của nó. Nguyên tắc này được áp dụng trong sự sấy, sự chưng cất hơi nước dưới sự<br />
chiếu xạ vi sóng.<br />
- Ngoài ra các nhóm định chức phân cực như -OH, -COOH, -NH2,…trong<br />
các hợp chất hữu cơ cũng là những nhóm chịu tác động mạnh của trường điện từ.<br />
1.3 Tinh dầu long não<br />
1.3.1 Lịch sử khai thác và sử dụng long não [16]<br />
Theo Gildemeister và Hoffmann, tinh dầu long não được chế biến và sử dụng<br />
ở Trung Quốc từ thời thượng cổ (khoảng 300 năm trước Công Nguyên). Ở thế kỷ<br />
thứ VI, cây long não được sử dụng như là một vị thuốc. Nó đã được ghi chép bởi<br />
hoàng tử Ả rập Imru-I-Kais và trong cuốn sách thánh của những người theo đạo Hồi<br />
gọi là kinh Koran, trong đó long não được coi là một chất nước giải khát cho những<br />
người ở thiên đường. Vào thế kỷ thứ VII, các thương gia và thầy thuốc Ả rập đã biết<br />
nhiều chemotype long não, có loại từ Trung Quốc, có loại từ Sumatra.<br />
Ở Nhật Bản, người ta cho rằng chính người Nhật đã học cách chế biến long<br />
não của người Triều Tiên. Tại Đài Loan, người ta chưa biết là đã bắt đầu khai thác<br />
long não từ khi nào. Klaproth là người đã tham quan đảo này vào đầu thế kỷ trước<br />
cho rằng việc chế biến long não là một trong những ngành công nghiệp chủ yếu ở<br />
đây và đã không ngừng phát triển sau khi người Nhật chiếm đóng Đài Loan.
26<br />
Đầu tiên, long não được dùng trong y học do những người Ả rập, sau đó đến<br />
người Ý (thế kỷ XI) và người Đức (thế kỷ XII), tinh dầu long não được nhập khẩu<br />
vào châu Âu từ năm 1884.<br />
Do nhu cầu về camphor trên thị trường rất lớn, nên sau chiến tranh Nhật -<br />
Trung, chính phủ Nhật tuyên bố độc quyền về sản xuất camphor ở toàn bộ Đài Loan<br />
vào năm 1903.<br />
Theo Guenther rất khó để xác định ngày xuất hiện camphor trên thế giới vì<br />
trong các tài liệu trước đây, camphor dường như bị nhầm lẫn với borneol. “Kamfur”<br />
được đề cập tới trong nhiều tài liệu của Ả rập vào thế kỷ thứ VI, được sản xuất ở<br />
Sumatra hoặc ở các vùng khác của Malaysia có khả năng là borneol. Theo Marco<br />
Polo vào thế kỷ XIII, camphor đã được biết một cách rộng rãi như là một sản phẩm<br />
kỳ diệu của phương Đông. Kể từ lúc đó, camphor trở nên có một vị trí quan trọng<br />
trong thương mại.<br />
Cùng với sự gia tăng về nhu cầu, việc sản xuất camphor được bắt đầu ở<br />
Trung Quốc, nơi mà từ xa xưa, long não đã phát triển rất dồi dào.<br />
Tác phẩm khoa học đáng tin cậy của Trung Quốc có tên là “Honzo-Komoku”<br />
xuất bản vào năm 1596 đã mô tả camphor được ly trích từ gỗ long não ở Trung<br />
Quốc ngay từ thế kỷ XVI, nhưng dường như camphor thiên nhiên đã được sản xuất<br />
từ thời gian sớm hơn nhiều, có khả năng từ thế kỷ XIII. Những nhà nghiên cứu<br />
Trung Quốc đã quan sát và ghi chép lại tinh thể camphor có màu trắng, là kết quả<br />
của sự thăng hoa tự nhiên, hình thành do sự lắng tụ trong các khe gỗ của long não.<br />
Những tài liệu nói về camphor ở Nhật Bản thì liên quan đến một sản phẩm<br />
được nhập khẩu từ Trung Quốc. Người Nhật đã biết đến cây long não từ thời xa<br />
xưa, đó là loại cây phát triển dồi dào tại khu vực Kyu-Shu, và trong thời gian dài,<br />
cây long não được sử dụng làm gỗ xây dựng và gỗ đóng tàu. Với sự thiết lập mối<br />
quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản, thì quy trình tách camphor từ<br />
cây đã được đưa vào Nhật (từ khoảng giữa năm 1688 và 1703).
27<br />
Ở Đài Loan, chính phủ Trung Quốc dưới triều Ma-Ching chiếm hòn đảo Đài<br />
Loan vào năm 1683, đã bắt đầu một chính sách bảo hộ cây long não làm nguồn<br />
cung cấp camphor cho Trung Quốc.<br />
Ở thế kỷ XVIII, ngành sản xuất camphor đã bắt đầu thịnh vượng và camphor<br />
sản xuất trên hòn đảo này đã trở nên nổi tiếng trên thế giới. Năm 1869, chính quyền<br />
Trung Quốc đã đạt được một thỏa thuận với các công ty Anh, Mỹ, Đức về xuất<br />
khẩu camphor. Song năm 1895, Nhật Bản chiếm Đài Loan lập chế độ độc quyền về<br />
ngành sản xuất camphor với mục đích chống sự cạnh tranh và để phát triển ngành<br />
công nghiệp này.<br />
Lúc đầu, việc chưng cất cây long não chỉ vì mục đích lấy camphor nên<br />
không có bình ngưng. Thực chất là quá trình thăng hoa. Công nghệ này được gọi là<br />
“phương pháp đun sôi” tồn tại khoảng 300 năm. Từ thời Tempo (1830-1843) các<br />
bình ngưng bằng nước lạnh mới được sáng chế ở Nhật Bản. Lúc đầu tinh dầu bị vứt<br />
bỏ hoặc được dùng làm dầu đốt. Mãi tới năm 1879, người Nhật Bản phát hiện ra là<br />
trong tinh dầu long não còn chứa một lượng camphor có thể thu lại bằng chưng cất<br />
phân đoạn. Từ đây ngành sản xuất camphor bước sang một giai đoạn mới.<br />
Vào những năm 1940-1950, khi Nhật Bản bị mất độc quyền về sản xuất<br />
camphor do việc xuất hiện camphor tổng hợp, và cả hai sản phẩm quan trọng của<br />
ngành sản xuất tinh dầu long não là “tinh dầu long não nâu” và “dầu Hô” cũng bị<br />
cạnh tranh bởi các sản phẩm của Brazil, chính phủ Nhật Bản đã quyết định phải<br />
tăng cường trồng rừng trên diện tích lớn và sử dụng tất cả các thành phần của tinh<br />
dầu long não một cách khoa học, để trong tương lai, thế giới có thể dựa vào nguồn<br />
cung cấp liên tục về camphor và tinh dầu long não từ Nhật Bản.<br />
Ngày nay thì Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc là ba nước sản xuất và<br />
cung cấp camphor tự nhiên lớn nhất thế giới.
1.3.2 Phân loại tinh dầu long não<br />
Gỗ<br />
28<br />
Chưng cất hơi nước<br />
2.0 - 2.5% tinh dầu camphor thô<br />
(lẫn tinh thể camphor)<br />
Lọc<br />
35 - 40% 60 - 55%<br />
Camphor thô Tinh dầu long não thô<br />
‘B’ Camphor Chưng cất phân đoạn<br />
50% 46%<br />
Camphor thô Tinh dầu long não<br />
(‘B’ camphor)<br />
Tinh dầu trắng 20%<br />
Thăng hoa Tinh dầu nâu 22%<br />
Camphor tinh chế Tinh dầu xanh 1%<br />
(loại 2 - BB) Nhựa dầu 3%<br />
Thăng hoa lần nữa<br />
Camphor tinh chế (loại 1)<br />
Sơ đồ 1.1 Qui trình chưng cất tinh dầu gỗ long não và các sản phẩm ở Nhật [26]
29<br />
Sơ đồ 1.1 cho thấy khi chưng cất tinh dầu gỗ long não không những thu<br />
được camphor mà còn thu được những sản phẩm khác của tinh dầu long não bằng<br />
chưng cất phân đoạn như: tinh dầu long não trắng (chứa nhiều cineol), tinh dầu long<br />
não nâu (chứa chủ yếu là safrol), tinh dầu long não xanh (chủ yếu là các<br />
sesquiterpen, sesquiterpen alcol, và azulen). [16]<br />
0.998.<br />
Tinh dầu camphor thô có màu từ vàng đậm đến nâu, tỷ trọng từ 0.950 -<br />
Tinh dầu camphor nhẹ là phân đoạn tinh dầu có nhiệt độ sôi thấp nhất và<br />
thường chỉ chứa các terpen. Tỷ trọng của tinh dầu này thường nằm trong khoảng<br />
0.870 - 0.910. Tinh dầu thường không màu.<br />
Tinh dầu camphor nặng, hay tinh dầu camphor đen, hoặc tinh dầu camphor<br />
nâu là phân đoạn tinh dầu có nhiệt độ sôi cao nhất, giàu safrol và chứa nhiều<br />
serquiterpen và một lượng nhỏ các hợp chất phenol. Tỷ trọng trung bình của tinh<br />
dầu nặng thường nằm trong khoảng 1.000 - 1.040.<br />
Những phân đoạn tinh dầu có nhiệt độ sôi rất cao, gần như không màu, thu<br />
được bằng cách chưng cất lại, có tỷ trọng từ 1.065 - 1.075, được bán như là “dầu<br />
sassafras nhân tạo”.<br />
Tinh dầu luôn có góc quay cực sang phải, thay đổi từ +12 o với dầu nặng đến<br />
+20 o đến +32 o trong tinh dầu nhẹ.<br />
Với từng giai đoạn chưng cất, hàm lượng tinh dầu camphor nhẹ là:<br />
175 o - 180 o : 25 - 35%<br />
180 o - 185 o : 30 - 45%<br />
185 o - 190 o : 10 - 15%
30<br />
Bảng 1.1 Đặc tính của những phân đoạn khác nhau của tinh dầu long não [16]<br />
Tinh dầu Trắng Nâu Xanh Vàng<br />
Tỉ trọng (15 o C) 0.870 - 0.880 1.000 - 1.035
31<br />
Bảng 1.2 Hàm lượng tinh dầu long não và camphor thu được khi chưng cất từng bộ<br />
phận của cây long não ở Nhật Bản [16]<br />
Bộ phận Lá Nhánh Thân Gốc Rễ<br />
Camphor (%) 1.0 0.3 0.8 1.3 0.8<br />
Tinh dầu long não (%) 0.3 0.6 1.4 1.8 2.5<br />
Tổng cộng 1.3 0.9 2.2 3.1 3.3<br />
Bảng 1.3 Hàm lượng tinh dầu long não và camphor thu được khi chưng cất từng bộ<br />
phận của cây long não Hon-Sho ở Đài Loan [16]<br />
Bộ phận Rễ Thân Cành Lá Toàn cây<br />
Camphor (%) 1.02 0.67 0.47 0.7 0.80<br />
Tinh dầu long não (%) 1.87 1.53 1.07 0.4 1.60<br />
Tổng 2.89 2.20 1.54 1.10 2.40<br />
- Từng bộ phận của cây long não, tinh dầu có thành phần khác nhau:<br />
Bảng 1.4 Hàm lượng các cấu phần chính trong tinh dầu lá và rễ ở các chemotype<br />
long não ở Trung Quốc [44]<br />
Chemotype<br />
Camphor<br />
Linalol<br />
Cineol<br />
Bộ<br />
phận<br />
Hàm lượng<br />
tinh dầu<br />
(%)<br />
Hàm lượng các cấu phần chính trong tinh dầu (%)<br />
Camphor Linalol Cineol -Terpineol Safrol<br />
Lá 1.70 72.0 1.3 3.3 3.5 0.7<br />
Rễ 1.86 33.6 1.2 10.1 4.6 38.3<br />
Lá 2.05 0.7 80.2 4.8 2.1 0.8<br />
Rễ 1.15 5.8 8.9 0.5 0.5 78.8<br />
Lá 2.22 1.4 0.5 48.1 15.9 0.3<br />
Rễ 1.52 12.2 2.1 10.6 5.5 60.7
32<br />
Bảng 1.5 So sánh hàm lượng và thành phần hoá học tinh dầu vỏ và lá long não ở<br />
Cấu phần<br />
Pháp [35]<br />
Hàm lượng (%)<br />
Vỏ Lá<br />
1,8-Cineol 6.8 1.0<br />
Camphor 59.2 84.1<br />
-Terpineol 1.5 -<br />
Borneol - 1.0<br />
Terpinen-4-ol 0.1 1.2<br />
-Terpineol - 2.0<br />
Safrol 4.5 -<br />
-Santalen 4.2 -<br />
cis--Bergamoten 2.2 -<br />
-Humulen 1.0 1.5<br />
-Santalen 2.5 -<br />
N.I. (M=204) 1.8 0.2<br />
Biciclogermacren - 2.0<br />
Spatulenol - 2.6<br />
-Cadinol 1.0 0.3<br />
Các nghiên cứu về tinh dầu long não cho thấy:<br />
- Rễ long não là bộ phận có hàm lượng tinh dầu nhiều nhất.<br />
- Từng bộ phận của cây long não, tinh dầu có hàm lượng và thành phần hóa học<br />
khác nhau.<br />
1.3.3.2 Tinh dầu gỗ long não<br />
1.3.3.2.1 Cấu tạo lớp màng tế bào gỗ [5]<br />
Lớp màng tế bào gỗ có tới ba lớp. Điều này khác hẳn với màng tế bào ở các<br />
bộ phận khác, chúng thường chỉ có hai lớp. Ba lớp này bao gồm:
- Lớp chung: cấu tạo bởi các pectin<br />
33<br />
- Lớp sơ lập: dày hơn lớp chung, hình thành bởi các celuloz và pectin<br />
- Lớp hậu lập: do các tế bào già chuyển hóa thành. Ở lớp này celuloz thường<br />
bị tẩm mộc tố, nên rất dày và chắc chắn.<br />
1.3.3.2.2 Tính chất hoá lý và thành phần hoá học của tinh dầu gỗ<br />
Bảng 1.6 Tính chất hóa lý của tinh dầu gỗ long não ở một số quốc gia<br />
Quốc gia Đài Loan [16] Ấn Độ [18] Trung Quốc [44] Kenya [15]<br />
Chemotype Hon-Sho Ho-Sho Hon-Sho Yu-Sho<br />
Tỉ trọng<br />
(25 o C)<br />
Chỉ số khúc xạ<br />
(25 o C)<br />
Góc quay cực<br />
(25 o C)<br />
0.9543<br />
1.4806<br />
+32 o 24’<br />
0.9231 -<br />
0.9306<br />
1.4692 -<br />
1.4702<br />
+17 o 14’<br />
- +22 o<br />
0.9428 -<br />
0.9436<br />
1.4713 -<br />
1.4727<br />
+26 o -<br />
-29 o<br />
0.9101 a<br />
1.4751 b<br />
+31 o 23’<br />
0.9270 -<br />
0.9337<br />
1.4704 -<br />
1.4735<br />
+7 o 48’ -<br />
-18 o 48’<br />
0.9460 a<br />
1.4910 a<br />
IA 1.1 - 2.5 - 3.1 - 0.6 - 0.9 -<br />
IE 4.1 - 4.0 - 5.0 - 1.4 - 2.2 -<br />
Chỉ số acetil 23.3 - 21.6 - 36.4 - 47.9 -<br />
Alcol (%) 6.5 - - - - -<br />
Camphor (%) 50.5<br />
với a 20 o C; b 30 o C<br />
39.6 -<br />
44.0<br />
+31 o<br />
- 51.5 27.0 - 34.2 87.29
34<br />
Bảng 1.7 Thành phần hóa học tinh dầu gỗ long não ở một số quốc gia<br />
Cấu phần<br />
Australia<br />
[35]<br />
Việt Nam<br />
-Pinen 2.2 1.81-2.59 -<br />
Limonen 2.5 0.00-2.91 -<br />
1,8-Cineol 11.5 2.73-4.13 -<br />
[1]<br />
Kenya<br />
Camphor 51.3 75.60-83.50 87.29<br />
Citronelol 3.2 - -<br />
Safrol 11.0 0.00-0.23 1.10<br />
-Terpineol - 0.35-1.36 2.44<br />
Eugenol - - 1.15<br />
trans-1,2,3-Trimetil-4-propenilnaptalen - - 4.01<br />
Camphen - 1.54-1.98 -<br />
1.3.3.2.3 Sơ lược về việc trồng rừng long não, sản xuất camphor, tinh dầu<br />
long não và bán tổng hợp camphor ở một số nước trên thế giới [16]<br />
Theo Gildemeister, ngày xưa ở Nhật Bản có tới 10 triệu ha cây long não. Lúc<br />
đầu người ta thường chưng cất tinh dầu từ những cây long não rất lớn, có chu vi gốc<br />
cây từ 7-12 m. Cùng với sự phát triển của ngành sản xuất camphor và tinh dầu long<br />
não, nguồn cây long não mọc tự nhiên bị khai thác cạn dần. Để tạo nguồn nguyên<br />
liệu cho ngành sản xuất đang phát triển này, người ta đã phải tổ chức trồng cây long<br />
não trên qui mô lớn. Khoảng từ năm 1906-1913, chính phủ Nhật Bản đã tổ chức<br />
trồng được một lượng rất lớn cây long não và tới những năm 1950, phần lớn số cây<br />
được khai thác là những cây được trồng vào thời gian này. Tới năm 1947, Nhật Bản<br />
có khoảng 12 triệu cây, phủ trên khoảng 18000 ha, tương ứng với 2 triệu tấn gỗ, có<br />
thể thu được khoảng 40000 tấn camphor và tinh dầu long não, đủ đáp ứng cho nhu<br />
cầu sản xuất trong khoảng 15 năm. Do sự kiệt quệ của các rừng long não, chính phủ<br />
Nhật Bản lại phải tiến hành một kế hoạch trồng rừng long não, mỗi năm trồng 2750<br />
ha để sau 5 năm sẽ có 13750 ha rừng long não do nhà nước quản lí. Sau đại chiến<br />
[15]
35<br />
thứ II, do việc mất Đài Loan, chính phủ Nhật Bản đã có một cố gắng rất lớn để<br />
trồng rừng long não, để trong tương lai thế giới có thể dựa vào nguồn cung cấp liên<br />
tục về camphor và tinh dầu long não từ Nhật Bản.<br />
Ở Đài Loan: năm 1900, chính phủ Đài Loan đã bắt đầu một chương trình<br />
trồng rừng long não trên qui mô lớn và có hệ thống. Tới những năm 1950, Đài Loan<br />
đã trồng thêm được khoảng 44000 ha rừng long não, không kể 6500 ha rừng tự<br />
nhiên vẫn được bảo vệ.<br />
Ở Trung Quốc, năm 1937, nhà nước đã đưa ra những chỉ dẫn về việc giúp đỡ<br />
các vùng khác nhau xây dựng cơ sở công nghiệp sản xuất camphor, đã xây dựng các<br />
trung tâm nghiên cứu tinh dầu long não, phân bố cây con cho các trang trại, bảo vệ<br />
các cây già không bị đốn để lấy hạt làm giống.<br />
Việc trồng long não đã được chú ý phát triển ở rất nhiều nước như: Ấn Độ,<br />
Malaysia, Philippin, …có thể trồng long não bằng rễ, giâm cành hoặc ghép cành,<br />
song thông thường thì bằng phương pháp gieo hạt.<br />
Tại Nhật Bản, camphor và tinh dầu long não được chưng cất từ gỗ của các<br />
cây trên 25 năm tuổi. Khi một cây bị chặt, toàn bộ phần rễ, gốc, thân, nhánh đều<br />
được chuyển đến nhà máy. Tại nhà máy, gỗ được bào thành những mảnh nhỏ và<br />
mỏng, sau đó mới đem đi chưng cất.<br />
Thường thì phần gỗ được chưng cất từ 8-10 giờ, còn phần rễ thì cần tới 15<br />
giờ chưng cất. Điều kiện tốt nhất để chưng cất là khi 700-800 ml sản phẩm thu được<br />
trong một phút được sản xuất từ 500 kg nguyên liệu gỗ. Tỷ lệ giữa dầu và nước thu<br />
được sau khi chưng cất là 1:25. Tinh dầu long não và camphor tinh thể được lấy ra<br />
một tháng một lần, sau khoảng 40 lần chưng cất.<br />
Những nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy hàm lượng tinh dầu và tỷ lệ camphor<br />
trong cây long não phụ thuộc vào nhiều yếu tố [16]<br />
- Cây mọc tự nhiên chứa nhiều tinh dầu và camphor hơn là cây trồng.<br />
- Cây mọc riêng biệt chứa nhiều tinh dầu và camphor hơn là cây mọc tập<br />
trung.
36<br />
- Những cây phát triển tốt chứa nhiều tinh dầu và camphor hơn cây phát triển<br />
kém.<br />
- Cây già chứa nhiều camphor hơn cây non.<br />
- Cây được trồng trên đất cát, khô cằn thì cho hàm lượng camphor nhiều hơn<br />
được trồng trên các loại đất khác.<br />
- Cây mọc trên đất khô ráo chứa nhiều camphor hơn cây mọc trên đất ẩm ướt.<br />
Do nhu cầu về camphor ngày càng tăng, người ta đã tìm cách tổng hợp<br />
camphor. Việc bán tổng hợp camphor từ -pinen, thành phần chủ yếu trong tinh<br />
dầu thông, đã được thực hiện ở các phòng thí nghiệm của Nhật Bản và Đài Loan từ<br />
nhiều năm trước đây. Năm 1937, Nhật Bản đã xây dựng một kế hoạch sản xuất với<br />
qui mô 10 tấn/năm. Quá trình bán tổng hợp là:<br />
-Pinen → Acetat bornil → Camphen → Camphor<br />
Camphor tổng hợp là dạng racemic, không quang hoạt.<br />
Từ những năm 1960, ở Liên Xô, người ta đã bán tổng hợp camphor từ<br />
borneol, thành phần chính trong tinh dầu cây Linhsam Xibiri (Albies sibirica).<br />
Camphor tổng hợp thu được bằng con đường này ở dạng tả triền.<br />
1.3.3.3 Tinh dầu vỏ long não<br />
Tính chất hóa lý và thành phần hóa học của tinh dầu vỏ<br />
Bảng 1.8 Tính chất hóa lý của tinh dầu vỏ long não ở Ấn Độ [33]<br />
Chỉ số Vỏ<br />
Hàm lượng (%) 2.0-2.5<br />
Màu sắc Vàng nhạt<br />
Tỉ trọng (20 o C) 0.9423<br />
Chỉ số khúc xạ (20 o C) 1.4720
37<br />
Bảng 1.9 Thành phần hóa học tinh dầu vỏ long não ở một số quốc gia<br />
Cấu phần<br />
Hàm lượng (%)<br />
Ấn Độ [33] Pháp [35]<br />
-Pinen 2.1 0.1<br />
Camphen 1.4 -<br />
-Pinen 0.6 0.1<br />
Mircen 0.9 -<br />
p-Cimen 0.2 0.2<br />
1,8-Cineol 8.2 6.8<br />
Camphor 78.7 59.2<br />
-Terpinenol - 1.5<br />
Borneol 0.2 -<br />
Terpinen-4-ol - 3.6<br />
-Terpinenol 2.0 4.8<br />
Safrol 1.6 4.5<br />
-Cariophilen - 0.1<br />
-Santalen - 4.2<br />
cis--Bergamoten - 2.2<br />
epi--Santalen - 0.7<br />
-Humulen - 1.0<br />
(E)--Farnesen - 0.2<br />
-Santalen - 2.5<br />
(Z,E)--Farnesen - 0.1<br />
(E,E)--Farnesen - 0.1<br />
Calacoren - 0.1<br />
-Eudesmol - 0.7<br />
-Cadinol - 1.0
1.3.3.4 Tinh dầu lá long não<br />
Tính chất hóa lý và thành phần hóa học của tinh dầu lá<br />
Bảng 1.10 Tính chất hóa lý tinh dầu lá long não ở Trung Quốc [44]<br />
Chỉ số<br />
d<br />
n<br />
20<br />
20<br />
20<br />
D<br />
38<br />
Chemotype<br />
Camphor Linalol Cineol iso-Nerolidol Borneol<br />
0.945 0.874 0.935 0.991 0.987<br />
1.4806 1.4650 1.4714 1.5005 1.4541<br />
+39.5 -15.59 -20.65 +9.75 +24.5<br />
Bảng 1.11 Tính chất hóa lý tinh dầu lá long não ở 2 vùng khác nhau ở Ấn Độ [25]<br />
Đặc tính Calcutta Chunabhati<br />
Màu sắc Không màu Vàng nhạt<br />
Tỉ trọng 0.9280 29.2 0.9300 30.1<br />
Góc quay cực + 30 o 60’ + 32 o 19’<br />
Chỉ số khúc xạ 1.4786 29.5 1.3807 30<br />
IA 2.238 3.217<br />
IE 12.148 3.476<br />
Chỉ số acetil 29.8 -<br />
Độ hòa tan 1:1 (90% alcol) 1:1 (90% alcol)
39<br />
Sau đây là những nghiên cứu về thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở một số<br />
quốc gia:<br />
Bảng 1.12 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Ấn Độ [30]<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
1 -Pinen 1.4 17 Borneol 0.8<br />
2 Camphen 1.1 18 Terpinen-4-ol 0.6<br />
3 Sabinen 0.8 19 -Terpineol 0.9<br />
4 -Pinen vết 20 -Elemen vết<br />
5 Mircen 1.0 21 -Copaen vết<br />
6 -Phelandren 0.2 22 -Gurjunen 0.1<br />
7 -Terpinen 0.2 23 -Cariophilen 0.8<br />
8 p-Cimen 2.3 24 -Humulen 1.3<br />
9 -Phelandren vết 25 -Murolen 0.4<br />
10 1,8-Cineol 2.6 26 Germacren D 0.3<br />
11 (Z)--Ocimen 0.2 27 Curcumen 0.3<br />
12 (E)--Ocimen 0.2 28 Germacren B 0.2<br />
13 -Terpinen vết 29 Germacren D-4-ol 0.1<br />
14 Terpinolen vết 30 Oxid cariophilen 0.2<br />
15 Linalol vết 31 10-epi--Eudesmol 0.1<br />
16 Camphor 81.5 32 -Cadinol 0.3<br />
(%)
Stt Cấu phần<br />
40<br />
Bảng 1.13 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Brazil [21]<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
1 -Tujen 0.20 15 Terpinen-4-ol 0.67<br />
2 -Pinen 3.15 16 -Terpineol 0.96<br />
3 Camphen 1.83 17 -Citronelol 0.08<br />
4 Sabinen 0.19 18 Neral 0.07<br />
5 -Pinen 1.16 19 Acetat isobornil 0.98<br />
6 -Mircen 1.90 20 -Cariophilen 0.66<br />
7 -Phelandren 0.56 21 -Humulen 0.27<br />
8 Limonen 3.59 22 Germacren D 0.14<br />
9 (E)--Ocimen 0.27 23 Biciclogermacren 0.56<br />
10 -Terpinen 0.21 24 Elemol 0.07<br />
11 -Terpinolen 0.61 25 (E)-Nerolidol 0.08<br />
12 Linalol 8.92 26 Spatulenol 0.14<br />
13 Camphor 68.03 27 Globulol 0.12<br />
14 l-Borneol 0.54<br />
(%)
41<br />
Bảng 1.14 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Trung Quốc [44]<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
1 -Tujen 0.14 18 Terpen-4-ol 0.02<br />
2 -Pinen 1.29 19 Acetat citronelil 0.50<br />
3 Camphen 1.55 20 -Bisabolen 0.13<br />
4 -Pinen 0.77 21 Borneol 1.10<br />
5 Sabinen 0.25 22 -Terpineol 1.29<br />
6 Mircen 0.35 23 Humulen 0.16<br />
7 -Phelandren 0.81 24 Acetat terpinil 0.11<br />
8 Limonen 0.03 25 -Citronelol 0.11<br />
9 1,8-Cineol 1.73 26 Acetat geranil 0.04<br />
10 -Terpinen 0.19 27 iso-Geraniol 0.05<br />
11 p-Cimen 0.02 28 Safrol 0.16<br />
12 Terpinolen 0.03 29 Metileugenol 0.50<br />
13 Camphor 83.87 30 iso-Nerolidol 0.51<br />
14 Linalol 0.53 31 Metiliso-eugenol 0.03<br />
15 -Copaen 0.45 32 -Eudesmol 0.14<br />
16 Acetat bornil 0.60 33 Guaiol 0.03<br />
17 Cariophilen 0.75<br />
(%)
42<br />
Bảng 1.15 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Australia [41]<br />
Stt Cấu phần Hàm lượng (%) Stt Cấu phần Hàm lượng (%)<br />
1 -Pinen 4.6 8 Camphor 74.1<br />
2 Camphen 2.6 9 Terpinen-4-ol
Stt Cấu phần<br />
43<br />
Bảng 1.17 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Cuba [36]<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
1 Triciclen vết 21 cis-Piperitol vết<br />
2 -Pinen 0.2 22 Neral 0.1<br />
3 -Fenchen 4.6 23 2-Undecanon vết<br />
4 Camphen 3.7 24 Acetat -terpinil 0.1<br />
5 Sabinen 0.1 25 -Copaen 0.1<br />
6 -Pinen 1.7 26 -Bourbonen vết<br />
7 Mircen 1.9 27 -Elemen 0.1<br />
8 -Phelandren 0.3 28 -Cariophilen 1.7<br />
9 -3-Caren vết 29 -Elemen vết<br />
10 -Terpinen vết 30 -Humulen 0.2<br />
11 p-Cimen 0.7 31 Germacren D 1.5<br />
12 Limonen 5.0 32 Biciclogermacren 1.5<br />
13 1,8-Cineol 0.4 33 -Cadinen 0.1<br />
14 -Phelandren 0.1 34 (Z)-Nerolidol vết<br />
15 Hidrat cis-sabinen 0.1 35 Elemol 0.1<br />
16 Terpinolen 0.2 36 Germacren B 0.2<br />
17 Camphor 71.2 37 Spatulenol 1.1<br />
18 Borneol 0.9 38 Oxid cariophilen 0.4<br />
19 Terpinen-4-ol 0.9 39 14-Hidroxi-9-epi- 0.1<br />
20<br />
-Terpineol<br />
1.2<br />
(β)-cariophilen<br />
(%)
Stt Cấu phần<br />
44<br />
Bảng 1.18 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Pháp [35]<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
1 -Pinen 0.1 11 -Elemen 0.1<br />
2 Mircen 0.1 12 -Cariophilen 0.2<br />
3 1,8-Cineol 1.0 13 -Humulen 1.5<br />
4 Limonen 0.6 14 Biciclogermacren 2.0<br />
5 Hidrat trans-sabinen 0.1 15 -Cadinen 0.4<br />
6 Camphor 84.1 16 Germacren B 0.1<br />
7 Borneol 1.0 17 Spatulenol 2.6<br />
8 Terpinen-4-ol 1.2 18 Oxid humulen 0.2<br />
9 -Terpinenol 2.0 19 -Cadinol 0.3<br />
10 -Elemen 0.1<br />
(%)<br />
Bảng 1.19 Thành phần hóa học tinh dầu lá long não ở Buôn Mê Thuộc [8]<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
Stt Cấu phần<br />
Hàm lượng<br />
(%)<br />
1 -Tujen 0.26 16 l-Borneol 0.55<br />
2 -Pinen 4.37 17 Terpinen-4-ol 0.80<br />
3 Camphen 2.62 18 -Terpineol 1.11<br />
4 Sabinen 0.32 19 Acetat bornil 1.51<br />
5 -Pinen 1.89 20 -Elemen 0.14<br />
6 -Mircen 2.91 21 Metilisoeugenol 0.25<br />
7 -Phelandren 0.57 22 -Cariophilen 1.42<br />
8 -Terpinen 0.12 23 -Humulen 1.80<br />
9 p-Cimen 0.32 24 Germacren D 0.57<br />
10 l-Limonen 6.68 25 Aromadendren 0.23<br />
11 -Terpinen 0.35 26 Nerolidol 0.26
12 Hidrat sabinen 0.10 27 Oxid cariophilen 0.26<br />
13 -Terpinolen 0.60 28 Humuladienon 0.17<br />
14 Linalol 0.11 29 Pentadecic-2-yl-1-ol 0.10<br />
15 Camphor 69.71 30 Oleat propil 0.15<br />
45<br />
1.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hàm lượng và thành phần hóa học tinh dầu<br />
long não [10]<br />
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học về tinh dầu long não cho thấy: hàm<br />
lượng, chất lượng và thành phần hóa học tinh dầu long não chịu ảnh hưởng rất lớn<br />
của nhiều yếu tố: giống, nơi trồng, khí hậu, thời điểm thu hoạch, qui trình ly trích<br />
tinh dầu.<br />
Các yếu tố như nơi trồng, khí hậu đã được trình bày ở phần trên cho thấy có<br />
ảnh hưởng lớn đến hàm lượng và thành phần hóa học của tinh dầu, trong mục này<br />
trình bày một vài yếu tố ảnh hưởng khác.<br />
1.3.4.1 Giống<br />
Phạm Văn Khiển đã nghiên cứu hàm lượng và thành phần hóa học của cây<br />
mẹ (cấu phần chính là camphor) và 4 chemotype.
46<br />
Bảng 1.20 Thành phần hóa học của cây mẹ và 4 chemotype long não [19]<br />
Cấu phần Cây mẹ 1 2 3 4<br />
-Tujen 0.1 - - - -<br />
-Pinen 0.4 - - - -<br />
-Pinen 0.2 - - - -<br />
-Phelandren 0.9 0.38-0.71 6.44-10.1 0.18-0.39 0.10-0.42<br />
1,8-Cineol 4.9 2.02-3.11 45.0-53.6 0.24-0.54 0.14-0.21<br />
Camphor 81.9 75.8-80.6 0.30-2.53 0.30-1.34 0.09-4.63<br />
Terpinen-4-ol 0.9 0.87-1.22 1.07-1.61 0.53-1.28 0.35-1.30<br />
-Terpineol 1.3 2.02-2.65 15.9-19.9 1.82-3.34 1.06-9.64<br />
Safrol 0.2 1.09-3.68 1.15-9.71 3.90-11.0 36.7-57.7<br />
(E)-Nerolidol - - - 33.2-41.6 15.2-18.9<br />
9-Oxonerolidol - - - 22.2-24.7 6.65-11.3<br />
với:<br />
1: chemotype camphor;<br />
2: chemotype 1,8-cineol và -terpineol<br />
3: chemotype (E)-nerolidol và 9-oxonerolidol;<br />
4: chemotype safrol và (E)-nerolidol.<br />
1.3.4.2 Thời điểm thu hoạch [44]<br />
Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành thu hái lá long não ở các<br />
chemotype vào những tháng khác nhau và tiến hành khảo sát hàm lượng cấu phần<br />
chính có trong mẫu tinh dầu lá. Kết quả được thể hiện qua đồ thị sau:
Hàm lượng (%)<br />
47<br />
Tháng<br />
Đồ thị 1.1 Sự thay đổi cấu phần chính theo thời điểm thu hái ở các chemotype<br />
với I: chemotype linalol; II: chemotype camphor; III: chemotype cineol<br />
Nhìn vào đồ thị 1.1, có thể thấy rằng ứng với bất kỳ chemotype long não nào<br />
khi thu hái ở những thời điểm khác nhau thì hàm lượng cấu phần chính thay đổi lớn.<br />
1.3.4.3 Tuổi<br />
Bảng 1.21 Hàm lượng tinh dầu long não và camphor theo độ tuổi cây [26]<br />
Tuổi cây<br />
(năm) Camphor<br />
Hàm lượng (%)<br />
Tinh dầu long não<br />
(đã tách camphor)<br />
Tổng cộng<br />
5 - 1.00 1.00<br />
10 0.13 1.08 1.21<br />
15 0.27 1.15 1.42<br />
20 0.50 1.50 2.00<br />
25 0.63 1.50 2.13<br />
30 0.82 1.40 2.22<br />
35 0.88 1.40 2.28<br />
40 1.00 1.30 2.30
48<br />
45 1.05 1.30 2.35<br />
50 1.10 1.30 2.40<br />
55 1.14 1.30 2.44<br />
60 1.28 1.20 2.48<br />
65 1.35 1.20 2.55<br />
70 1.35 1.20 2.55<br />
75 1.42 1.20 2.62<br />
80 1.52 1.10 2.62<br />
100 1.60 1.10 2.70<br />
120 1.70 1.10 2.80<br />
Theo bảng 1.21 cho thấy, tuổi của cây càng lớn thì hàm lượng camphor càng<br />
tăng và hàm lượng tinh dầu long não càng giảm, nhưng tổng hàm lượng của cả tinh<br />
dầu long não và camphor đều tăng.<br />
1.3.4.4 Chiều cao của cây<br />
Các nhà khoa học tiến hành lấy mẫu ở những độ cao khác nhau của thân cây<br />
và khảo sát hàm lượng tinh dầu. Kết quả cho thấy có sự thay đổi về hàm lượng tinh<br />
dầu thu được.<br />
Bảng 1.22 Hàm lượng tinh dầu long não và camphor thu được ở các độ cao khác<br />
nhau của thân cây Hon-Sho 120 tuổi [24]<br />
Chiều cao cây<br />
(m)<br />
Đường kính thân<br />
(cm)<br />
Camphor<br />
(%)<br />
Tinh dầu long não<br />
(%)<br />
0.30 107.3 1.73 2.24<br />
3.03 80.6 1.11 1.61<br />
6.67 71.8 0.82 1.26<br />
12.12 54.5 0.48 0.81<br />
15.76 40.0 0.17 0.58<br />
19.39 24.2 0.06 0.34<br />
21.21 23.0 0.02 0.22
49<br />
23.03 21.2 - -<br />
26.66 11.2 - -<br />
Theo bảng 1.22 càng lên cao thì hàm lượng tinh dầu long não và hàm lượng<br />
camphor càng giảm.<br />
Bảng 1.23 Hàm lượng tinh dầu long não và camphor thu được khi khảo sát<br />
vòng sinh trưởng của thân cây Hon-Sho (5 năm 1 lần) [26]<br />
Vòng sinh trưởng<br />
(năm)<br />
Camphor<br />
(%)<br />
Tinh dầu long não<br />
1-5 - -<br />
(%)<br />
11-15 - 0.083<br />
21-25 0.007 0.346<br />
31-35 0.133 0.616<br />
41-45 0.303 0.796<br />
51-55 0.473 0.909<br />
61-65 0.622 1.000<br />
71-75 0.755 1.090<br />
81-85 0.855 1.166<br />
91-95 0.948 1.240<br />
101-105 1.043 1.329<br />
111-115 1.135 1.430<br />
1.4 Vài nét về tổn thương bỏng ở da [11]<br />
1.4.1 Các mức độ bỏng<br />
Bỏng là tên gọi chung các tổn thương tế bào dưới tác dụng trực tiếp của<br />
nhiệt, điện, hóa chất, phóng xạ…<br />
Bệnh bỏng: cả quá trình từ khi bị bỏng đến khi khỏi (hoặc tử vong) có thể<br />
phát sinh ra những rối loạn chức năng toàn thân và những biến đổi tại vết bỏng này
50<br />
biểu hiện bằng các hội chứng bệnh lý xuất hiện có tính chất quy luật được xem là<br />
bệnh bỏng<br />
Có thể chia bệnh bỏng ra thành nhiều cấp độ:<br />
- Bỏng nông: bị bỏng lớp biểu bì và một phần trung bì, sự lành hóa<br />
theo hướng tái tạo da hoặc tạo sẹo<br />
- Bỏng sâu: khi bỏng toàn bộ lớp da hoặc tổn thương tới gân, cơ,<br />
xương, khớp, tạng. Việc chữa trị cần sự ghép da hay phẫu thuật tạo hình. Những<br />
trường hợp bỏng sâu nhưng đường kính nhỏ hơn 5 cm thì có thể tự liền sẹo.<br />
Bảng 1.24 Phân loại mức độ bỏng<br />
Bỏng nông Bỏng sâu<br />
Độ 1 Độ 2 Độ 3 Độ 4 Độ 5<br />
Viêm da<br />
cấp, đỏ da<br />
do bỏng<br />
Bỏng<br />
biểu bì,<br />
còn lớp<br />
đáy<br />
Nông Sâu<br />
Tổn thương<br />
lớp nhú, còn<br />
ống và gốc<br />
lông, tuyến<br />
mồ hôi<br />
Tổn thương<br />
lớp lưới,<br />
còn phần<br />
sâu tuyến<br />
mồ hôi<br />
Bỏng toàn<br />
bộ da<br />
Bỏng da và<br />
các lớp<br />
dưới da<br />
1.4.2 Các thời kỳ của bệnh bỏng<br />
Tùy mức độ tổn thương, vị trí cơ thể bị bỏng và trạng thái cơ thể mà xuất<br />
hiện trạng thái bệnh lý khác nhau.<br />
+ Thời kỳ thứ nhất<br />
Từ 2-3 ngày đầu tiên sau bỏng. Còn được gọi là thời kỳ của các đáp ứng và<br />
các biến đổi bệnh lý cấp hoặc đáp ứng viêm cấp mang tính hệ thống sau bỏng. Nếu<br />
chấn thương bỏng nghiêm trọng sẽ xảy ra sốc bỏng. Các biến chứng cấp: suy thận<br />
cấp, thủng loét cấp ống tiêu hóa, chảy máu cấp ống tiêu hóa, tràn huyết phế nang.<br />
+ Thời kỳ thứ hai<br />
Từ ngày 3-4 đến ngày thứ 30-45-60 sau bỏng, thường xem là tháng đầu tiên<br />
của chấn thương bỏng.
51<br />
Nếu bỏng nông, đây là giai đoạn liền sẹo và khỏi bệnh.<br />
Nếu bỏng sâu, mức độ tổ chức hoại tử lớn, sưng mủ… sẽ phóng thích vào cơ<br />
thể lượng lớn các chất độc từ mô tế bào bị phân rã như histamin, leucotoxin, các<br />
proteinase… gây hội chứng nhiễm độc bỏng cấp. Nhiễm khuẩn tại chỗ, biến chứng<br />
nhiễm khuẩn vùng lân cận và trạng thái nhiễm khuẩn toàn thân là bệnh lâm sàng<br />
chính của thời kỳ này. Nếu vết thương bỏng không được cải thiện, hệ quả trực tiếp<br />
sẽ là suy mòn bỏng, tạo thành vòng bệnh lý. Đây là thời kỳ có độ tử vong cao nhất<br />
trong bệnh bỏng.<br />
+ Thời kỳ thứ 3<br />
Trạng thái suy mòn bỏng hoặc xuất hiện rõ rệt hoặc không phát triển rõ nét.<br />
Biểu hiện rõ nét là các rối loạn về chuyển hóa và dinh dưỡng của cơ thể,<br />
hoặc là sự cải thiện vết bỏng nhờ điều trị tốt tại chỗ và toàn thân.<br />
thường.<br />
+ Thời kỳ thứ 4<br />
Là thời kỳ lành hóa vết thương, các rối loạn trong cơ thể dần trở về mức bình<br />
1.4.3 Cơ chế xâm nhập của vi khuẩn khi bỏng<br />
Các loài vi sinh vật gây nhiễm khuẩn huyết - nhiễm khuẩn toàn thân trong<br />
bỏng thường là các vi khuẩn gây nhiễm mủ tại vết bỏng. Chúng bao gồm:<br />
- Vi khuẩn Gram dương: thường là một số loại vi khuẩn như: Staphylococcus<br />
aureus, Streptococcus viridans, Streptococci nhóm B, Streptococci không tan huyết,<br />
Enterococci nhóm D, Staphylococcus epidermidis…<br />
- Vi khuẩn Gram âm: các trực khuẩn trú ở ruột như Escherichia coli,<br />
Proteus, Klebsiella, Enterobacter, Citrobacter, Serratia… và các chủng khác như<br />
Acinobacter, Morganella, Pseudomonas aeruginosa<br />
- Các vi khuẩn khác: các nấm huyết gồm Candida albicans, Candida<br />
parapsilosis, Candida tropicalis, Aspergillus mucor, Alternaria, Geotrichum,<br />
Rhizopus…
52<br />
Các loài vi khuẩn sinh trưởng tại vết thương bỏng phụ thuộc vào: các thời kỳ<br />
tiến triển của vết thương bỏng, tính chất hoại tử bỏng, diện tích bỏng sâu, vị trí của<br />
vết thương bỏng, cách chữa trị tại chỗ và toàn thân.<br />
Trong thời gian đầu, vi khuẩn có ở bề mặt vết bỏng và trong những ống nang<br />
tuyến, gốc lông, rồi chúng có trong đám hoại tử bỏng và xâm nhập xuống tận viền<br />
ranh giới giữa phần mô chết và phần mô lành. Chúng tiếp tục xâm nhập sâu vào<br />
vùng mô lành và từ đó vào thành các vi mạch gây hiện tượng viêm và gây huyết tắc<br />
các vi mạch tiến triển mà hậu quả là hoại tử thứ phát tiến triển trên các mô. Với một<br />
lượng lớn vi khuẩn trên 10 6 vi khuẩn/g mô và sự xâm nhập sâu tới thành mạch bắt<br />
đầu cho trạng thái nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn toàn thân.<br />
Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập và lưu hành trong máu, sinh trưởng và tiết ra<br />
các độc tố, men và một số sản phẩm phụ để kích hoạt và gây hại cho mô - tế bào,<br />
các cơ quan của cơ thể.<br />
1.4.4 Điều trị bỏng<br />
Tùy theo tính chất và thời gian tiến triển của vết thương bỏng mà có những<br />
phương pháp điều trị khác nhau.<br />
Các loại thuốc dùng tại vết thương bỏng:<br />
o Thuốc làm rụng hoại tử bỏng: các men phân hủy protein, các thuốc hóa chất,<br />
acid không mạnh.<br />
o Các thuốc làm bớt phù nề mô hạt: nước muối sinh lý ưu trương, dung dịch<br />
hydrocostison.<br />
o Các thuốc kháng khuẩn, sát khuẩn: acid boric, acid acetic, nitrat bạc,<br />
cosilin…<br />
o Các thuốc ảnh hưởng tốt đến quá trình tái tạo vết bỏng: thuốc mỡ như dầu<br />
gan cá thu, thuốc mỡ Madecassol…<br />
o Các thuốc làm se khô và tạo màng che phủ vết thương bỏng mới: phổ biến là<br />
dùng Tanin, cao đặc của vỏ sơn trà, cao đặc lá sim…<br />
o Các thuốc có tác dụng sinh học điều trị tại chỗ vết bỏng, vết thương: Biafine,<br />
Chitosan…
53<br />
o Các vật liệu sinh học có tác dụng che phủ tạm thời vết thương: màng nhau,<br />
da tử thi, da dị loại (như da ếch, da lợn), màng sinh học (như Biobrane,<br />
Integra, Collagen, vải carbon).