Ảnh: Vườn Quốc gia Tràm Chim
Tài chính khu <strong>bảo</strong> <strong>tồn</strong> <strong>thiên</strong> <strong>nhiên</strong> Bảo đảm có được các nguồn tài chính và <strong>quản</strong> <strong>lý</strong> sử dụng chúng một cách hiệu quả là vấn đề sống còn đối với các khu BTTN để có thể duy trì thực hiện nhiệm vụ cung cấp sản phẩm, dịch vụ môi trường và <strong>bảo</strong> <strong>tồn</strong> đa dạng sinh học. 5.1 Cách tiếp cận “doanh nghiệp” trong <strong>quản</strong> <strong>lý</strong> khu BTTN Hiện nay trên thế giới đang phát triển cách tiếp cận coi các khu BTTN như một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Trong đó kinh doanh là phương tiện để đạt mục tiêu <strong>bảo</strong> <strong>tồn</strong> tốt hơn. Để phát triển kinh doanh, vấn đề quan trọng là khu BTTN cần xác định được hai vấn đề: • Một là có chiến lược phát triển các hàng hoá mà khu BTTN có thể bán được; và • Hai là có chiến lược thu hút các khách hàng trên thị trường có thể mua các hàng hoá đó, từ đó có chiến lược bán hàng để tạo nguồn thu, bù đắp các chi phí <strong>bảo</strong> <strong>tồn</strong>. Các hàng hoá của khu BTTN đã được trình bày trong phần nói về giá trị kinh tế khu BTTN. Các hàng hoá của khu BTTN có thể chia làm hai nhóm: hàng hoá công cộng và hàng hoá cá nhân. Hàng hoá công cộng cần được chi trả bằng các khoản tài trợ như ngân sách chính phủ, viện trợ không hoàn lại, hay quỹ uỷ thác. Hàng hoá cá nhân được chi trả bằng giá thị trường do các khách hàng cá nhân trả như thu dịch vụ du lịch, phí cho phép săn bắt, tiền thuê các dịch vụ. Để có chiến lược huy động tài chính phù hợp, có thể chia các khách hàng theo 4 nhóm sau: • Nhóm dân cư địa phương: các nhóm dân cư địa phương thường có mức độ hưởng lợi khác nhau từ khu BTTN. Mặc dù họ có thể không có đóng góp tài chính trực tiếp cho khu BTTN, nhưng việc kinh doanh của họ (khách sạn, nhà hàng, bán đồ lưu niệm…) có thể đóng góp thuế cho nhà nước. Tuy <strong>nhiên</strong> những người dân hay doanh nghiệp địa phương thường hiểu rõ địa bàn và biết các cơ hội kinh doanh, và họ có thể thuê lại một số dịch vụ của khu BTTN để kinh doanh, và trả tiền thuê cho khu BTTN. Năm 1995, các khu BTTN ở Mỹ thu được 15 triệu đô la tiền cho thuê dịch vụ, còn các nhà kinh doanh các dịch đó thu được 662 triệu đô la. • Nhóm khách hàng thương mại là những người sử dụng trực tiếp các giá trị của khu BTTN. Ví dụ như các công ty du lịch, hãng làm phim, các hãng nghiên cứu, chương trình giáo dục… <strong>Khu</strong> BTTN có thể thu được các nguồn tài chính từ việc cho phép các khách hàng này sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của khu BTTN. • Nhóm khách hàng hưởng lợi ích môi trường: đó là những người hay cộng đồng ở vùng hạ lưu được hưởng lợi từ các dịch vụ môi trường của khu BTTN. Các lợi ích này có thể là từ việc kiểm soát lũ lụt, điều hoà nguồn nước. Năm 1998, tại Costa Rica, công ty thuỷ điện INMAN đã ký thoả thuận với khu BTTN MCL về việc công ty thuỷ điện trả tiền dịch vụ sinh thái trực tiếp 10 đô la/ha/năm cho khu BTTN trên diện tích 3000ha/22000 ha sinh thuỷ cho nhà máy thuỷ điện. • Nhóm khách hàng quốc tế: đó là các nhà tài trợ cho các Công ước, quỹ môi trường quốc tế như Công ước CBD, Công ước CMS, Công ước CITTES, Công ước WHC, Công ước RAMSAR,…Các công ước này vận động các quỹ tài trợ cho các khu BTTN trên thế giới. Ví dụ, Quỹ GEF, Quỹ RAMSAR, Cơ chế phát triển sạch với thị trường hấp thụ Các bon. Năm 1998, chính phủ Costa Rica đã tuyên bố bán 300 triệu đô la trái phiếu Các bon cho các nước công nghiệp. Tiền thu về được đầu tư cho việc <strong>bảo</strong> vệ và phát triển 57