Hướng dẫn quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên - IUCN
Hướng dẫn quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên - IUCN
Hướng dẫn quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên - IUCN
Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
Giá trị kinh tế của khu <strong>bảo</strong> <strong>tồn</strong> <strong>thiên</strong> <strong>nhiên</strong><br />
không hay chấp nhận đánh đổi dịch vụ này. Khái niệm Sẵn sàng chi trả (willingness<br />
to pay - WTP) và Sẵn sàng chấp nhận (willingness to accept - WTA) được trình bày tại<br />
Hộp 16. Các giá trị dự kiến cho phép tính toán giá trị trong mọi trường hợp khi có thị<br />
trường hoặc không có thị trường. Phương pháp này thường được dùng trong tính<br />
toán giá trị <strong>tồn</strong> tại, giá trị lựa chọn, giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp.<br />
Hộp 16: Khái niệm về Sẵn sàng chi trả và Sẵn sàng chấp nhận<br />
Mọi người đánh giá giá trị lợi ích của họ từ các khu BTTN thông qua quan niệm sẵn sàng chi trả cho các<br />
lợi ích được hưởng đó. Có thể nhận biết những người nay qua các cuộc điều tra hay qua đánh giá thị<br />
trường. Cũng có người đánh giá giá trị lợi ích môi trường từ các khu BTTN mà họ được hưởng thông<br />
qua quan niệm chấp nhận đánh đổi các lợi ích môi trường đó để có các lợi ích khác. Trong trường hợp<br />
có những tổn thất về mặt môi trường, người ta có thể sẵn sàng chi trả để ngăn chặn sự tổn thất đó, hay<br />
sẵn sang chấp nhận đánh đổi để chịu đựng sự tổn thất đó.<br />
Hai khái niệm này đều liên quan tới các giá trị của khu BTTN. Do con người thường đánh giá những gì<br />
họ có cao hơn những gì họ không có, nên WTP thường nhỏ hơn WTA. Những người có thu nhập cao<br />
thường có khả năng sẵn sàng chi trả lớn hơn người có thu nhập thấp. Những người có thu nhập cao<br />
từ các nước phát triển thường đánh giá các lợi ích sử dụng và không sử dụng tại các khu BTTN tại các<br />
nước đang phát triển cao hơn sự đánh giá của người dân tại các nước đang phát triển. Để có thể đánh<br />
giá so sánh được các giá trị này, có thể tính tỷ lệ % giá trị lợi ích đó so với thu nhập. Tuy <strong>nhiên</strong> việc này<br />
thường <strong>dẫn</strong> tới chính sách có mức giá cả dịch vụ khác nhau đối với du khách từ các nước phát triển.<br />
• Phương pháp Định giá mức độ thoả mãn thường sử dụng các thị trường hiện có<br />
- như nhà ở, lao động - để xác định giá trị của sản phẩm, dịch vụ môi trường. Giá nhà<br />
và tiền lương ở những vùng quanh khu BTTN có thể khác nhiều so với các nơi khác vì<br />
những giá trị mà khu BTTN tạo ra đem lại cho con người nhiều ợi ích hơn như không<br />
khí trong lành, cảnh quan đẹp. Phương pháp này được sử dụng khi thiếu các thông tin<br />
về các sản phẩm, dịch vụ môi trường và giá cả trên thị trường khác không đầy đủ.<br />
• Phương pháp chi phí du lịch sử dụng thị trường hiện có để xác định giá trị về môi<br />
trường đối với con người. Vì các giá trị đó mà họ bỏ thời gian và tiền ra để đi du lịch.<br />
Phương pháp này rất tốt khi đánh giá các giá trị không thương mại, giá trị giải trí của<br />
khu BTTN.<br />
• Phương pháp Thay đổi năng suất xác định giá trị các sản phẩm, dịch vụ của khu<br />
BTTN bằng cách ước tính giá trị sản xuất trên diện tích khi thay đổi mục đích sử dụng.<br />
Cách tính này có thể cho thấy rõ giá trị sinh thái của khu BTTN. Ví dụ các khu rừng đặc<br />
dụng có tác dụng điều hoà nước cho sản xuất nông nghiệp ở hạ lưu. Nếu không còn<br />
rừng nữa thì năng suất nông nghiệp sẽ bị thay đổi. Sự thay đổi đó chính là giá trị của<br />
khu BTTN đem lại.<br />
• Phương pháp tính theo Lợi ích bị mất xác định sự thay đổi tác động tới con người khi<br />
môi trường thay đổi. Phương pháp này thường sử dụng khi có những thay đổi trong<br />
quy chế khu BTTN. Ví dụ nếu chất lượng nước từ khu BTTN bị giảm sút thì các bệnh<br />
liên quan tới nước sẽ tăng lên, như vậy giá trị của nước trong khu BTTN bằng chi phí<br />
phòng chữa các bệnh đó.<br />
• Phương pháp Chi phí cơ hội so sánh việc thay thế các nguồn thu khác nhau trên diện<br />
tích. Ví dụ xã hội và mọi người sẽ phải gánh chịu những chi phí khi sử dụng khu BTTN<br />
vào mục đích khác như nông nghiệp, xây đô thị, khai thác mỏ …<br />
53