You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
____________________________________________________________________________
[Tapez ici]
[Tapez ici]
Ban Biên Tập
• Ngọc Anh
• Nguyễn Hải Bình
• Trang Châu
• Thy Phương Lê Hoàng Điệp
• Khánh Giao Phùng Văn Hạnh
• Thảo Linh Phạm Xuân Hiền
• Dương Nghiệp Huân
• Tâm Huyền
• Văn Ngọc Nguyễn Ngọc Lang
• Sương Mai
• Cấn Thị Bích Ngọc
• Hải Phong
• Mai Bình Phương
• Lê Quốc
• Tố Quyên
• Kiều Sơn
• Nguyễn Tài
• Tiểu Thu Nguyễn Thu Thu
• Nguyễn Khuê Tú
• Yên Vũ
Chủ nhiệm - Chủ bút
• Trang Châu
Thực hiện - Trình bày
• Dziên Hồng Designs
Thư từ và bài vở xin liên lạc:
lvtrangchau@yahoo.ca
L
ẽ ra, theo thông lệ hai năm một lần, vào thời
điểm này, hội viên Văn Bút Québec đang
chuẩn bị một lúc hai công việc: Viết bài cho
Giai Phẩm Xuân Tân Sửu cùng tham gia tổ chức
buổi văn nghệ dạ vũ gây quỹ cho hội vào đầu tháng
5. Nhưng vì đại dịch Covid 19 đang hoành hành
mạnh đợt 2 nên cả hai dự tính đều phải ngưng lại.
Nhưng trong cái rủi vẫn còn cái may: Cái may lớn
nhất là tất cả hội viên chúng ta, cho đến hôm nay,
không ai bị nhiễm con vi khuẩn quái ác này. Mặt
khác, bị hạn chế những sinh hoạt bình thường bên
ngoài, chúng ta rảnh rỗi thì giờ hơn để sáng tác. Nhờ
sự tận tình của toàn thể hội viên, chúng ta có được
eBook 3 rất mỹ thuật hôm nay, để chúng ta cùng
thân hữu của chúng ta có dịp nhìn ngắm cùng “nhâm
nhi” trong những ngày đầu xuân Tân Sửu.
Nhìn lại, mới đó mà Văn Bút Québec đã trải qua 33
mùa xuân trên đất khách.Cũng như mọi tổ chức, hội
cũng có lúc thịnh, lúc suy. Số hội viên ở cao điểm
nhất có 50 người và lúc thấp nhất 10 người. Nhưng
nhiều chưa hẳn đã thấy mạnh mà ít cũng không tỏ
ra là yếu. Và đối với cộng đồng người Việt tị nạn ở
Montréal, Văn Bút Québec lúc nào cũng được nhìn
là hội của những người cầm bút đứng đắn.
Nhà văn Tam Ích, trong bài viết giới thiệu một tác
phẩm văn chương, đã ví người cầm bút như một
kiếm khách thời xưa: “Không phải khoác một bộ áo
dạ hành, đeo một thanh trường kiếm rồi thoắt đi,
thoắt lại mà thành kiếm khách. Ở kiếm khách cốt
nhất là đường kiếm”. Cho nên chúng ta viết là để
trau dồi, để tiến tới, để phát huy, để đạt một “đường
kiếm” riêng cho mình.
Với tin vui thuốc chủng ngừa sẽ được phân phối,
đem lại an toàn cho mọi người, chúng ta ẩn dưỡng
đón xuân năm nay đồng thời chuẩn bị sinh lực cho
mùa xuân năm tới. Minh nhật hựu phùng xuân,
ngày mai trời lại sáng.
____________________________________________________________________________
[Tapez ici]
[Tapez ici]
MỤC LỤC
Tác giả Tựa bài Thể loại Trang
• Chỉ có hai điều
Thơ 4 - 5
Khánh Giao - BS Phùng • Một kiếp người
Truyện ngắn 6 - 17
Văn Hạnh
• Sự tĩnh lặng của linh hồn Thơ 94 - 95
• Hạnh phúc
Thơ 96 - 97
Tố Quyên • Au revoir maman Thơ 18
• Sớm mai
Thơ 19
• Cuộc sống
Thơ 20
Tiểu Thu • Đàn ông năm bảy lá gan Truyện ngắn 21 - 29
Nguyễn Hải Bình
• Ngàn thu một cõi Thơ 30
• Vieillir en beauté Thơ 31
Mai Bình Phương
• Tưởng là rong rêu Truyện ngắn 32 - 37
Trang Châu
Thảo Linh Phạm Xuân
Hiền
• Em và bóng lá
• Một lời xin
• Nhà tiên tri
• Dặn con khi khôn lớn
Đặng Vũ Vương
• Xuân tha hương
• Xuân nhớ tình xưa
Thơ
Thơ
Truyện dịch
Thơ
Chuyển ngữ
Thơ
Thơ
38
39
40 - 45
106 - 109
112 - 113
Nguyễn Tài • Ẩn ức Truyện ngắn 48 - 51
• Xuân tâm
Thơ 52 - 53
Văn Ngọc
• Tâm tư tuổi hạc
Thơ 54
• Dĩ vãng
Thơ 55
Lê Quốc • Nắm đất Tùy bút 56 - 60
• Lãng đãng
Thơ 61
Yên Vũ
• Khóc thầm
Thơ 62
• Tương tư khúc
Thơ 63
Cấn Thị Bích Ngọc • Lấy chồng Đài Loan Ký sự 64 - 69
• Đêm buồn nhớ một vì sao Thơ 70 - 71
Nghiệp Huân Dương
• Covid 19 Trùng trùng Thơ 72 - 73
duyên khởi
• Anh gọi em…
Thơ 74 - 75
Thy Phượng • Mùa hè năm ấy Hồi ký 76 - 89
• Bóng trăng sầu
Thơ 90
Sương Mai
• Xin lỗi…
Thơ 91 - 92
• Có không anh
Thơ 93
Hải Phong • Mầu lá Truyện ngắn 94 - 105
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mục lục 3
46
47
Có 2 điều bạn nên tiết kiệm:
Sức khỏe, lời hứa hẹn với ai.
2 điều bạn phải đổi thay:
Bản thân, nhận thức, mỗi ngày tiến lên.
2 điều phải giữ gìn cho kỹ:
Niềm tin, nhân cách, hãy vẹn toàn.
2 điều trân trọng cõi lòng:
Gia đình,hiện tại mới mong an bình
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 4
2 điều phải tự mình thực hiện:
Lao động, chịu trách nhiệm việc làm.
2 điều quên để bình tâm
Đau thương, thù hận, xóa tan vết tì
2 điều phải khắc ghi tạc dạ:
Công sinh thành, thiên hạ đỡ đần.
2 điều giúp ta công thành:
Đam mê cùng với quyết tâm kiên trì.
2 điều không thể thi hành được:
Hại kẻ khác, bội ước lòng tin
2 điều bảo vệ tận tình:
Danh tín, lẽ phải, phân minh, rạch ròi
2 điều phải thức thời chấp nhận:
Sự chết, người tâm tánh khác nhau.
2 điều kiểm soát từ đầu
Bản năng, cảm xúc, để hầu khỏi sai
2 điều phải tránh xa, từ bỏ:
Ích kỷ, bị cám dỗ tội khiên
2 thứ: kinh nghiệm bạc tiền
Phải được xử dụng, không nên hẹp hòi
2 điều tỏ ra không sợ sệt
Là cái ác, sống thật nên người
2 điều ta phải dưỡng nuôi:
Tình yêu, sự bao dung đời nhiễu nhương
2 điều phải đạt trong đời sống:
Hạnh phúc và chí hướng công thành
2 điều ta phải sẵn sàng:
Tiếp đón ngày mới, khó khăn cản đường
2 điều phải ghi lòng xúc tiến:
Các điều trên thực hiện hằng ngày
Làm thật tốt, thật hăng say
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 5
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 6
ách mạng Mùa Thu 1945, tiếp
theo là Toàn quốc kháng chiến
1946, là những thời điểm mà thế
hệ lưu vong trên 70 tuổi nhớ đến với
nhiều nỗi đau thương, ngậm ngùi.
Riêng tôi kỷ niệm tản cư những năm
kháng chiến chống Pháp thật khó quên.
Gia đình tôi bỏ làng ở tỉnh Quảng
Nam, chạy vào tận Bình Định. Lúc đầu
sống ở Bồng Sơn sau dời lên Hội Yên,
và sống ở đó cho đến ngày hồi cư về
làng cũ.
Một kỷ niệm khó quên là sông Lại
Giang. Sông xuất phát từ thung lũng
An Lão, chảy ra cửa biển Bàu Tượng,
xuyên qua các cánh đồng phì nhiêu
quận Hoài Ân, Hoài Nhơn. Về mùa
đông, con sông thu hẹp, cạn dòng, trừ
khi lũ lụt. Trái lại mùa nắng, mức nước
sông lên cao, chảy chậm lại vì cứ độ
một cây số thì có hệ thống dẫn thủy
nhập điền gọi là “bờ xe gió” hay “dàn
xe gió” (noria): Vào đầu Xuân, các
làng ven sông bắt đầu đóng cừ ngang
sông, ghép vỉ tre vào cừ, làm thành đập
chắn, dồn nước vào một lạch chảy xiết
sát bờ. Một giàn chừng 5 đến 10 bánh
xe đặt ngang qua lạch. Giàn là một kiến
trúc giống như sườn một căn lầu hai
từng gồm những cột gỗ đóng sâu vào
lòng lạch, và những xà ngang dọc, nối
kết vào cột, bằng dây mây. Giàn có
nhiều ngăn, và trong mỗi ngăn là một
bánh xe. Xà ngang nâng bánh xe có
khấc lót sắt cho trục tựa vào. Mỗi bánh
xe, có trục gỗ bịt sắt hai đầu, từ đó các
nan gỗ dài 3m tỏa ra nâng vành có bề
ngang 1m. Tất cả đều ghép lại bằng
những sợi mây, do những thợ chuyên
nghiệp làm. Những tấm vỉ tre cản nước
1m x 1m, được cột, cách khoảng đều
đặn, vào đầu mút nan, sát vành. Nước
đẩy những tấm vỉ làm bánh xe quay
trên trục. Các ống tre lồ ô, có đáy là
mắt tre, và có miệng hướng lên cao khi
vành xe được nâng lên khỏi mặt nước
sông, cột nghiêng 45 độ trên vành, múc
nước. Lên đến đỉnh, ống tre nằm
ngang, trút nước vào các máng xối dẫn
nước vào ruộng. Giữa các bờ xe gió, là
những hồ nước xanh biếc, phẳng lặng.
Bờ cừ cũng chừa một lối hẹp ở giữa
dòng sông cho đò dọc đi lại. Hội Yên
là một làng nông nghiệp ven sông Lại
Giang, có xưởng dệt vải Ba-ta (của dân
tản cư từ Phú bông, Quảng Nam vào),
có xưởng giấy sản xuất loại giấy màu
vàng sẫm (vì thiếu hóa chất tẩy bột
giấy), có Ủy Ban Kháng Chiến Miền
Nam (UBKCMN) trấn đóng, nên cuộc
sống ở đây có phần náo nhiệt. Với tôi,
Lại Giang thay thế Thu Bồn nơi quê
cũ, cũng đầy ắp kỷ niệm thiếu thời: tắm
sông, chèo thuyền...
Kháng chiến chống Pháp bước vào
năm thứ sáu. Liên khu 5 từ Đèo Hải
Vân vào đến Bình Thuận, gồm cả Cao
Nguyên Trung Phần là một quân khu
lớn. Từ Đèo Cả vào Nam, toàn bộ Cao
Nguyên, và hơn nửa tỉnh Quảng Nam
mạn Bắc, là vùng xôi đậu hoặc hoàn
toàn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp,
và chính quyền Quốc gia thời Bảo Đại,
nhất là các thị xã, quận lỵ, và thành
phố. Vùng hoàn toàn do UBKC Liên
khu 5 kiểm soát gồm nửa tỉnh Quảng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 7
Nam mạn Nam, tỉnh Quảng Ngãi và
Phú Yên. Năm 1952 Liên quân Pháp
và Bảo an Đoàn, trong chiến dịch
Atlante, đổ bộ lên Qui-Nhơn, và Tuy
hòa, (thành phố bỏ ngỏ do tiêu thổ
kháng chiến), rồi lan tỏa ra các vùng
phụ cận, thu hẹp phạm vi kiểm soát của
UBKC.
Vợ chồng Bác sĩ Hoa, làm việc ở Bệnh
viện Song Thanh, gần Qui-Nhơn, phải
di tản ra làng Hội Yên. Họ tá túc trong
nhà ông Chánh Bích, một địa chủ giàu
có trong làng. Trang trại ông Bích là
một khu vườn rộng lớn gần một mẫu
tây, có hàng rào xương rồng dày, kín,
vây bọc bốn phía. Cổng vào là một
ngôi nhà nhỏ, lợp ngói, khép lại bằng
hai cánh cửa lim. Tiếp theo cổng là lối
đi vào nhà, giữa hai hàng dâm bụt cắt
xén đẹp
mắt, và
những
chậu hoa
lớn, trồng
đủ thứ hoa
nhiều màu,
thơm ngát.
Bóng mát
những cây
ăn quả làm
lối đi mát
rượi. Rời
lối đi rợp
mát, khách
bước vào
sân gạch
rộng lớn,
chan hòa
ánh sáng, mà vào mùa gặt dùng để phơi
lúa. Một dãy nhà dài, lợp ngói đỏ, có
hàng hiên rộng, làm thành chữ U, bọc
hai bên và chính diện sân. Vườn sau
dãy nhà là thế giới êm mát, rợp bóng
cây ăn quả. Gia đình tôi đã thuê một
góc vườn, dựng một mái nhà tranh để
ở. Chính vì thế mà tôi có dịp gần gũi
hai ông bà Bác sĩ Hoa.
BS Hoa đã tốt nghiệp Y khoa, đại Học
Paris năm 1942. Vợ ông, bà Khương
Băng Tuyết, tốt nghiệp viện Quốc gia
Âm Nhạc Paris khoa Dương cầm cùng
năm ấy. Ông, quê Đà Nẵng, con một
phú thương. Cha ông có tàu buôn lớn,
chở hàng đi về các cảng Sài gòn, Hải
Phòng,Vinh, và là chủ nhân những dãy
phố cho thuê, dày đặc ở Đà Nẵng. Bà,
quê Sài gòn cũng con một đại phú gia.
Hai người
đã quen
biết nhau ở
Paris,
trong một
buổi họp
mặt sinh
viên du
học, và
một tình
yêu lớn đã
nảy nở,
trong
khung
cảnh lãng
mạn của
kinh đô
hoa lệ nhất
Châu Âu.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 8
Sau ba năm say đắm, tràn đầy hạnh
phúc, cộng với nỗi mừng vui đỗ đạt,
công thành, danh toại, họ hối hả về
Việt Nam để thành hôn cuối năm 1942.
Lễ cưới được cử hành ở Sài gòn thật
linh đình. Rước dâu về Đà Nẵng phải
thuê bao cả hai toa tàu hạng nhất. Lễ ra
mắt cô dâu ở họ nhà trai cũng linh đình
không kém. Đám cưới xong, đôi tân
hôn đi hưởng tuần trăng mật ở Ý, rồi
ghé Paris để sống lại kỷ niệm thân
thương. Ba tháng sau họ trở về Đà
Nẵng. Nhưng không phải là để mở
phòng mạch hành nghề. Cả hai ông bà
đều là con một, và cùng kế thừa một
sản nghiệp đồ sộ của đôi bên phụ mẫu
đã qua đời vài năm sau. Các nghiệp vụ
doanh thương đã có những gia nhân
thân tín đứng cai quản, và hàng tuần
báo cáo thu nhập. Vì thế BS Hoa thấy
không phải hành nghề chi cho mệt, mà
cùng vợ hưởng thụ cuộc sống thư
nhàn, đi du lịch khắp nước, từ Bắc, chí
Nam. Họ giao du rộng rãi và như Mạnh
Thường Quân, trong nhà lúc nào cũng
đầy thực khách, và cả ba, bốn bàn mạt
chược. Nhưng biến cố năm 1945 dồn
dập đến: Cách mạng Mùa Thu rồi Toàn
quốc kháng chiến. Pháp trở lại tái
chiếm Đà Nẵng. Ông Cử Diện, cha BS
Hoa, xưa kia đã từ quan thời Pháp để
xoay qua kinh doanh. Ông đã giúp đỡ
rộng rãi phong trào yêu nước Đông du,
cấp học bổng cho học sinh giỏi và có
chí hướng du học Pháp. Vì thế BS Hoa,
cũng chẳng ưa gì chế độ thực dân, đã
chọn lựa đi tản cư, khi thành phố lọt
vào tay Pháp. Hai ông bà đã gói ghém
vàng bạc, nữ trang đi vào tận Quảng
Ngãi rồi Bình Định. Bà không quên
mang theo đàn dương cầm, mà sự
chuyên chở kềnh càng tốn tiền không
ít. Ngày mà bà chở dương cầm về Hội
Yên, ít nhất phải sáu người lực lưỡng
mới đem được đàn xuyên qua cổng nhà
ông Chánh Bích.
Ở lứa tuổi 16, lối sống của ông bà BS
Hoa thu hút trí tò mò của tôi. Ông lúc
ấy độ 30 tuổi, nét mặt nghiêm nghị,
thanh tú, trí thức. Bà khoảng 25, với vẻ
đẹp quý phái, cân đối, khỏe mạnh,
đúng như lời thơ ông tặng bà lúc mới
quen nhau:
Xinh xinh sao thân nở đặn đầy
Xinh xinh sao đôi má hồng hồng
Xinh xinh sao nụ cười êm ái
Xinh xinh sao dáng đi quý phái
Xinh xinh sao vầng trán phẳng phiu
Xinh xinh sao mái tóc mỹ miều
Mái tóc xõa của tuổi xanh ngăn ngắt
Và đôi mắt, ồ đôi mắt
Là một trời tình tứ, ngây thơ..
Ngước nhìn, anh những thẫn thờ,
Nàng tiên tiền kiếp, trong mơ đây rồi...
Trong khi mọi người ăn mặc xuềnh
xoàng với vải ta sần sùi, ông bà với áo
quần vải vóc ngoại mượt mà, trắng tinh
hoặc màu sắc óng ả. Ban ngày khi ông
đi làm ở bệnh viện Liên khu cách Hội
Yên một cánh đồng, bà ở nhà, làm bếp,
trồng hoa, và nhất là đàn dương cầm cả
giờ. Bà không đi chợ mua đồ ăn, mà
gửi tiền, nhờ người khác mua.
Để tránh con mắt tò mò, ông bà ít ra
ngoài. Thảng hoặc có đi dạo trong làng
thì lựa ban đêm, trên những hẻm mờ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 9
tối. Thấy tôi nghe lén bà đàn, bà nẩy ý
dạy tôi đánh đàn. Nhờ cách dạy tận tâm
và có phương pháp, tôi tiến bộ nhanh.
Tôi bước vào thế giới huyền diệu của
âm thanh qua các bài menuet đơn giản
nhưng réo rắt, những bài Songe d'été,
Princesse Czardas, La prière d'une
vierge, La chapelle au clair de lune,
Lettre à Élise, v.v... dịu dàng thơ
mộng. Những bài bà đàn thì
rất khó và dài dặc của những
nhạc sĩ cổ điển nổi danh,
như Beethoven, Bach,
Mozart, Brahms, Chopin,
Mendelssohn, cùng rất
nhiều nhà soạn nhạc khác
mà tôi không nhớ hết. Tôi
nghe tâm tình bà qua bài
“sonate au clair de lune” của
Beethoven, lúc xao xuyến,
lúc hối tiếc, giận dỗi và sự
thanh thản cuối cùng.
Bà kể tôi nghe Beethoven lúc nhỏ đã bị
cha xiềng chân vào đàn, để tập đánh
đàn cả ngày cho giỏi. Bà cũng kể uy
lực của âm nhạc qua chuyện nhạc sĩ
nầy có cô học trò cũ đến thăm, thổ lộ
ông nghe nỗi buồn vô vọng vì đứa con
mới chết. Ông không nói gì, ngồi trước
dương cầm, dạo những khúc nhạc êm
ái đến nỗi một giờ sau, người học trò
thấy lòng thanh thản trở lại, vơi đi nỗi
buồn mất con...
Bà cũng kể khi mới về làm dâu, cha mẹ
chồng nghe bà tốt nghiệp dương cầm,
bèn bảo bà đánh đàn cho nghe. Ngồi
trước phím đàn, bà e lệ hỏi:
-Thưa ba mẹ muốn con đàn bài gì?
Bà mẹ chồng âu yếm bảo:
-Con đàn sáu câu vọng cổ cho ba mẹ
nghe.
Bà đã khóc thầm, trong bụng thấy tủi,
vì công phu mình học thật quá thừa để
đàn 6 câu vọng cổ đơn giản. Phải chi
nói mình đàn sonate của Beethoven
hay Mazurkas của Chopin cho thỏa
chí.
Qua những chuyện bà kể, qua đối thoại
tâm tình của hai ông bà, tôi biết mối
tình họ được xây đắp trong sự hài hòa,
quên mình, lắng nghe nguyện vọng của
nhau để đem lại niềm vui cho người
mình yêu. Tôi biết được Paris có sông
Seine chảy về hướng Tây (nước ta
phần lớn sông đều chảy về Đông) và
chia Paris thành hai phần Nam (tả
ngạn), Bắc (hữu ngạn). Trung tâm
thành phố là nhà thờ Notre Dame nằm
trên cù lao giữa dòng sông Seine. Từ
trung tâm ấy, Montmartre với đền thờ
Sacré Cœur ở hướng Bắc. Hướng Nam
là Montparnasse. Quảng trường
Bastille ỏ hướng Đông. Tháp Eiffel
cao vọi ở hướng Tây. Vì những cuộc
hẹn hò trên các nẻo đường Paris, mà họ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 10
thuộc thành phố rộng lớn nầy như
trong lòng bàn tay, chỗ nào có cà-phê
ngon, chỗ nào
có tiệm ăn
Việt Nam,
tiệm
Mandarin bán
tới con vịt số
mấy. Họ tìm
kỷ niệm nhiệt
đới ở đường
Cherche
Midi. Họ đi
trên “bâteau
mouche” để
nhớ lại kỷ
niệm chuyến đi trước. Họ lang thang
trên những nẻo đường ngoại ô, tay cầm
tay, nói không bao giờ hết chuyện như:
-“trời hôm nay đẹp”, -“ừ, trời hôm nay
đẹp thật” –“anh có nhớ mình quen
nhau lúc nào?”, -“Em có biết tối qua,
nhớ em không ngủ được” v.v...
Ông Chánh Bích có một thuyền gỗ dài
độ 10m. Giữa thuyền là một căn nhà
nhỏ 3m X 4m có mái lợp cót che mưa
nắng, có cửa sổ treo rèm hai bên, có
cửa ra vào, đằng lái và đằng mũi.
Trong nhà nhỏ có một bộ bàn ghế tiếp
khách. Thời trước ông hay đi lại trên
Lại giang, hoặc tiếp đãi bạn bè trên
thuyền nầy. Nhưng từ ngày Cách mạng
Mùa Thu, ông biết chính quyền không
ưa gì lối sống tư sản, nên ông không
dùng thuyền nữa, mà chỉ cho mượn đãi
khách.
Ông bà BS Hoa đã mượn thuyền để
thưởng thức vẻ đẹp đêm trăng trên Lại
giang, nhân kỷ niệm 10 năm thành
hôn. Vì biết chèo thuyền nên tôi được
tháp tùng hai
ông bà. Hôm
ấy cũng có BS
Đồi, đi xe đạp
trên 100km,
từ Quảng ngãi
vào thăm.
Chúng tôi 4
người, đợi
hoàng hôn
xuống, mới
rời nhà ra bến
xưởng giấy,
mang theo
đèn cầy, trà, bếp cồn cùng đồ ăn. Trăng
rằm đã lên ở chân trời, tròn, sáng. Hàng
dừa hai bên bờ sông, lá đung đưa theo
gió, lấp lánh ánh trăng. Mặt nước
phẳng lặng in trăng xuống đáy, lan tỏa
những vòng vàng rực. Chúng tôi xuống
thuyền. Tôi mở dây buộc thuyền và ra
sau lái khua chèo, nhẹ nhàng đẩy
thuyền ra giữa sông. Đến nơi tôi thả
neo, giữ thuyền đứng yên một chỗ. Tôi
giúp khiêng bàn ra đằng mũi, chúng tôi
ngồi vào bàn, im lặng ngắm vẻ đẹp
chung quanh: Bầu trời có ít vẩn mây,
sâu thẳm. Trăng lên cao một ngọn sào
trên chóp hàng dừa, tỏa ánh sáng bàng
bạc trên sông. Dàn xe gió lấp lánh dưới
trăng, nước đổ ra trên máng xối như
những dòng bạc sáng lung linh. Tiếng
nước đổ rào rào, tiếng trục xe gió mài
trên đà nâng, rên rỉ kéo dài nghe thật
buồn. Tình tự xa quê nhà vì tản cư, nỗi
khổ chiến tranh, làm chùng lòng mọi
người. Bà BS Hoa lên tiếng trước phá
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 11
tan im lặng: “Tôi vào trong pha trà, nấu
chè và sửa soạn thức ăn.” Tôi vào giúp
bà và để hai bác sĩ ngồi tâm sự với
nhau. BS Đồi có mang theo một hộp
phó mát Camembert và hai ổ bánh mì
dài. Ông có người bà con, là gián điệp
nhị trùng, đã lén mang những thức ấy
từ Đà Nẵng vào cho ông. Vì muốn chia
với bạn thân, ông phải giấu của “quốc
cấm” ấy vào xách tay, và lặn lội đường
xa. Tối hôm ấy, sau khi chúc vợ chồng
BS Hoa tràn đầy hạnh phúc, chúng tôi
bắt đầu ăn bánh mì với phó mát, mà
gần 7 năm không được ăn, một món ăn
không có gì đặc biệt ở Paris hoặc Đà
Nẵng, song trong hoàn cảnh tản cư
hiện tại, quả là ngon tuyệt, mặc dù
bánh mì đã lâu ngày, không còn giòn
và ngọt. Hai ông bác sĩ còn uống thêm
rượu đế, để giải sầu. Sau đó tráng
miệng với chè đậu xanh đánh, mùi vị
rất ngon, mà bà BS Hoa đã nấu từ chiều
với một “recette” đặc biệt. Cuối cùng
là uống trà Bắc Thái, mà một cán bộ
miền Bắc vào, tạ ơn BS Hoa đã chữa
trị cho anh ta bệnh sốt rét. Trà ngon
thơm, và làm mọi người tỉnh ngủ. Hai
bác sĩ, ngồi giữa sông, không sợ tai
vách, mạch rừng, đã phê bình những
mưu toan UBKCMN che đậy dã tâm
xích hóa cuộc kháng chiến, dành công
đầu cho đảng Lao động, một đảng
Cộng sản trá hình. Sự bất mãn của họ
giải nghĩa vì sao họ trốn về thành,
chừng sáu tháng sau cuộc gặp gỡ trên.
Trăng đã xế về Tây lạnh lùng, xa vắng.
Chúng tôi đi nghỉ. Hai vợ chồng BS
Hoa trải chiếu nằm trong phòng nhỏ.
Tôi và BS Đồi nằm dưới trăng ở mũi
thuyền. Vì uống trà, tôi trằn trọc, khó
ngủ, và nghe vợ chồng BS Hoa to nhỏ,
âu yếm. Đến gần sáng thì tôi chợp mắt
ngủ.
Cũng nhờ có tiền, ông bà BS Hoa đã
móc nối với ngư dân ở Tam Quan. Một
ngày cuối tuần họ giả đi tắm biển.
Trong đêm tối họ xuống thuyền buồm,
ra khơi. Chuyến đi trót lọt, và hai ngày
sau họ đã về đến bãi biển Sơn Chà.
Trình diện với cơ quan an ninh thành
phố xong, ông bà được bạn bè cũ đến
bảo lãnh. Vì ngôi nhà cũ bị lính Pháp
trấn đóng, ông bà phải lang thang sống
nhờ người quen, đồng thời mướn luật
sư, tìm cách lấy lại tài sản cũ. Lúc ra đi
tản cư vội vã, không mang theo giấy tờ
sở hữu nhà đất. Giấy tờ của sở nhà đất
chính phủ cũng bị cháy rụi, lúc giao
tranh trong thành phố. Các nhà cho
thuê nay có chủ mới. Riêng những tàu
buôn thì phần bị phá hoại, lúc Pháp tái
chiếm cảng Đà Nẵng, phần bị trôi dạt
mất tăm. Tài sản bên bà BS Hoa ở Sài
gòn lại càng khó thu hồi lại được, vì
không tìm lại được gia nhân cũ, và
những chứng từ sở hữu. Vì cứ đinh
ninh sẽ trở về lối sống nhàn nhã trước
kia, hai ông bà theo đuổi kiện tụng, cả
ở Sài gòn và Đà Nẵng. Rốt cuộc chỉ đòi
lại được hai căn nhà nhỏ, nhưng phải
bán đi để lo luật sư. Thế là phải lang
thang sống nhờ bạn bè. Nhưng tình bác
ái lâu ngày rồi cũng mệt mỏi. Bạn bè
xa lánh, và có người nói xúc phạm. Hai
ông bà thấy tủi nhục, ôm nhau khóc lóc
cho tình đời đen bạc. Ông bà bàn định
sẽ cùng nhau tự tử. Thuốc ngủ đã mua
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 12
hai liều mạnh. Trong tuyệt vọng não
nề, bỗng ông sực tỉnh:
-“A quên mình còn cái bằng Bác sĩ.”
Thế là hai ông bà đứng lên, hăng hái
kiến tạo cuộc đời mới. Họ vay mượn
bạn bè ít vốn để mở phòng mạch. Ba
năm sau họ
đã trang trải
được nợ nần,
mua xe, mua
nhà, có đời
sống ổn định
và tìm lại
hạnh phúc
ngày xưa.
Gia đình có
thêm hai đứa
con, một trai,
một gái. Ông
không quên
mua cho bà
một đàn
dương cầm
mới. Trong
nhà lại dập
dìu tiếng
nhạc rộn vui,
thanh thản.
Thời đệ nhất
Cộng hòa
ông làm ty trưởng y tế Đà Nẵng, đồng
thời là giám đốc bệnh viện thành phố.
Khi Mỹ ồ ạt đổ quân vào Việt Nam và
leo thang chiến tranh, có những đoàn
văn nghệ từ Mỹ sang, đi khắp chiến
trường, biểu diễn cho lính Mỹ xem, để
nâng cao tinh thần chiến đấu của họ.
Có một đoàn văn nghệ biểu diễn quanh
Đà Nẵng trong nhiều tháng, trong ấy
có một nhạc sĩ dương cầm Mỹ trẻ, tên
gọi là Bill, tốt nghiệp âm nhạc viện
Nữu Ước. Anh chỉ là Trung sĩ, chắc là
để thi hành
nghĩa vụ
quân sự.
Đoàn văn
nghệ ấy,
gồm nhiều
ca sĩ nổi
danh, có lần
giúp vui cho
bệnh nhân
Bệnh viện
Đà Nẵng
trong dịp
Giáng sinh.
Phần lớn họ
hát các bài
thánh ca như
Jingle Bell,
Silent Night,
v.v... Cảm
động nhất là
các ca sĩ
ngoại đã hát
những bài
thánh ca Việt
như bản “Đêm đông” của nhạc sĩ Hải
Linh. Bill và bà Băng Tuyết đệm đàn,
rồi không biết vì sao, hai người lại cho
hội trường thưởng thức độc tấu dương
cầm , bà với bản Rhapsodie Hongroise
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 13
của Litz, Bill với bản Lieder của
Brahms. Họ âm thầm so tài và mọi
người đều bị lôi cuốn bởi dòng nhạc
êm ái, điêu luyện. Sau đêm biểu diễn
ông bà BS Hoa mời Bill đến tư gia ăn
những món đặc sản Việt. Bà Tuyết và
Bill lại có dịp bàn luận về âm nhạc. Bill
xuất thân gia đình vọng tộc, nói tiếng
Pháp thạo, vì đã từng qua Paris học hỏi
dương cầm. Chàng lại đẹp trai, khiêm
nhường, ăn nói có duyên và nhiệt tình.
Bà Tuyết được trời ưu đãi, trẻ lâu, lúc
ấy tuy gần 40, song da dẻ vẫn mịn
màng, đẹp mà không cần son phấn. Hai
người phục tài nhau, và cùng một mê
say: nhạc dương cầm cổ điển. Từ đó,
Bill thường đến nhà bà Tuyết và hai
tâm hồn đa cảm làm giàu cho nhau
bằng những khám phá lý thú bên đàn
dương cầm, thâm nhập vào sự tinh anh,
tài ba, xuất thần của các nhạc sĩ thiên
tài. Sở dĩ tôi
biết được các
chi tiết trên về
gia đình BS
Hoa vì sau khi
ông bà về
thành, gia đình
tôi cũng hồi cư
về làng cũ. Tôi
ra Huế tiếp tục
học, rồi vào trường Y Sài gòn. Khi đi
học cũng như khi ra trường, tôi vẫn
thường xuyên đến thăm ông bà. Lúc về
Tổng Y Viện Duy Tân, cuối tuần tôi
thường chơi mạt chược ở tư thất ông
bà. Kết thúc bi thảm sau đây tôi đã cố
tìm hiểu, và cho đến nay nghĩ đến tôi
vẫn còn bàng hoàng:
Sự đi lại thân thiết giữa bà Tuyết và
Bill đi vào một ngã rẽ định mệnh.
Không hề nghi ngờ lòng chung thủy
của vợ, bỗng một hôm, sau một ca mổ
căng thẳng, BS Hoa đột nhiên muốn về
nhà nghỉ ngơi. Mở khóa vào nhà,
phòng khách không có ai, trong nhà im
ắng. Ông đoán là vợ đi phố và các con
đều đến trường. Ông lặng lẽ đi vào
phòng ngủ và thấy Bill ôm vợ mình,
hai người say sưa trong giấc ngủ. Ông
choáng váng, lặng người, song cũng
vẫn bình tĩnh, không làm ồn ào. Khóa
cửa nhà lại như cũ, ông trở lại nhà
thương làm việc. Chiều đến ông về
nhà, xem như không có gì xảy ra.
Trong bữa ăn tối ông vẫn vui vẻ trò
chuyện với vợ và con. Nhưng tối đó
ông
không
vào
phòng
ngủ
như
thường
lệ. Bà
Tuyết
có trực
giác là có điều gì nghiêm trọng. Bà trăn
trở, và cuối cùng ra phòng làm việc của
chồng. Đèn vẫn sáng. Đồng hồ phòng
khách ngân nga điểm hai giờ.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 14
Chồng bà gục đầu trên bàn viết, thân
thể bất động, chùng xuống trên ghế
bành rộng. Hai cánh tay xoải trên bàn,
đè một lá thư. Như cái máy, bà rút lá
thư xem:
“Em thân yêu. Em hãy xem cái chết
của anh như một tai nạn xuất huyết
não cấp tính, và làm ma chay bình
thường, để khỏi gây những lời dị nghị,
có hại cho em và cho con cái chúng ta.
Anh vẫn yêu em như thuở ban đầu, và
cầu mong em thanh thản, yên vui trong
hạnh phúc mới. Riêng anh đã ích kỷ
chọn sự yên lặng của nấm mồ.”
Trong hốt hoảng bà điện thoại cho tôi
đến gấp. Năm phút sau tôi đã có mặt ở
nhà bà. Khám xác và nhìn lọ thuốc ngủ
trên bàn, tôi biết BS Hoa đã dùng một
liều cực mạnh, và đã tắt thở từ lâu. Thể
theo lời người quá cố, tôi đứng ra lo
việc ma chay long trọng, mà hầu hết
những nhân vật tai mắt của thị xã đều
đến phúng điếu, song không mảy may
hay biết sự tình, chỉ thương tiếc BS
Hoa đã sớm ra đi vì bạo bệnh.
Chừng ba tháng sau tang lễ, bà BS Hoa
xuống tóc, vào tu ở một ngôi chùa gần
nhà. Bà từ biệt thế giới dương cầm, âm
nhạc. Bà buộc vợ chồng tôi dọn về ở
nhà bà, tiếp tục coi sóc phòng mạch
của chồng bà, và theo dõi hai con bà
nay đã vào Đại học ở Sài gòn.
Vì sao BS Hoa đã chọn cái chết? Có lẽ
vì quen sống trong tiện nghi, cuộc đời
không có những thử thách, lao đao, nên
sự thích nghi, đối đầu với biến cố rất
yếu. Ông đã có một tình yêu lớn, ông
trân quý, xây đắp, và là nơi trú ẩn an
toàn cho ông. Ông đã tìm thấy ở đó
hạnh phúc lớn nhất của mình. Nhưng
biến cố xảy đến, làm cho lâu đài tình ái
của ông sụp đổ tan tành. Những điều
đẹp đẽ ông trân quý trở nên xấu xa, đen
tối không phương cứu vãn. Ông thất
vọng não nề. Ông quan niệm cuộc đời
quá đẹp. Ông không chấp nhận sự yếu
đuối, bội phản. Thật ra vợ ông chỉ là
yếu đuối, mà không bội phản. Thiên
chúa Giáo khác Phật Giáo ở điểm căn
bản. Phật giáo hoàn toàn đặt sự giải
thoát khỏi thất tình, lục dục bằng sự tự
chủ bản thân, nghĩa là chỉ ta cứu lấy ta.
Trái lại Chúa Jesus đã nói: “Linh hồn,
thì siêu thoát, nhưng xác thịt yếu đuối.”
Sai lầm là nhân bản (to err is human).
Biết con người yếu đuối tội lỗi nên
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 15
Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc nâng đỡ,
và sẵn sàng thứ lỗi, khi con người biết
hối lỗi và trở về với đường ngay, lẽ
thẳng. Sự cứu rỗi con người không thể
tự người làm được, mà phải nhờ vào sự
cộng tác, dẫn dắt của Thượng Đế. Bởi
người là người, không phải là thần
thánh. Tự biết mình yếu đuối, và thấy
sự yếu đuối của người khác là sự cao
cả của con người. (la grandeur de
l'homme est grande en ce qu'il se
connait misérable, et aussi en ce qu'il a
vu la misère d'autrui). BS Hoa phải
rộng lượng thứ lỗi cho sự yếu đuối của
vợ. Sự im lặng của ông thật đáng ca
ngợi, để tránh những đổ vỡ to lớn hơn
nữa. Nhưng ông đã ích kỷ tìm sự im
lặng của nấm mồ. Ông không biết như
thế là làm tan nát
tấm lòng yêu thương
chân thật của vợ ông,
và mối tình lớn mà
hai người un đúc sẽ
đứt đoạn. Ông phải
chấp nhận đau
thương, để tình yêu
thêm sâu sắc và biết
hy sinh hơn nữa.
Ông đã làm vợ ông
từ bỏ một sự phong
phú, giàu có tâm hồn
là âm nhạc, vì bà cho
đam mê nầy là đầu
mối của sự sa đọa.
Một tục ngữ Đức có
nói:“Khi người ta
đưa quỷ nắm ngón tay, nó sẽ chụp luôn
cả cánh tay.” Một cách tránh xa quyến
rũ tội lỗi, là đừng bao giờ thử xem một
tí. Đây cũng là bài học quá muộn cho
bà Tuyết. Trong thâm sâu tâm hồn, bà
đau khổ biết bao, khi thấy chính lỗi lầm
mình đã đưa chồng vào tuyệt vọng. Tôi
thường hay đến chùa thăm bà và đàm
đạo với bà về triết lý nhà Phật. Bà đã
tìm lại được sự thanh thản tâm hồn ở
cửa thiền, và sự tương thông với người
chồng quá cố thân yêu.
Bà tận tâm trong công việc từ thiện của
Chùa. Nhưng điều làm tôi vui mừng
nhất là bà đã cho mang đàn dương cầm
của bà vào chùa. Bà đã trở lại với âm
nhạc để tìm lại sự an bình mới. Bà đã
sáng tác nhiều ca khúc thâm trầm siêu
thoát, mà mỗi khi tôi
vào thăm, bà đàn cho
tôi nghe. Đó là
những truyền cảm
linh thiêng của
người mẹ thứ hai
trong đời tôi. Tôi ra
về với tâm lời
khuyên của tôi. Sự
có mặt một ngoại
nhân có thể gây dị
nghị. Thư anh gửi
cho bà Tuyết sau đó,
tôi đã hủy đi hết và
dặn anh nên chỉ liên
lạc với tôi. Anh có
trao đổi với tôi nhiều
ý kiến hay. Anh nói
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 16
là những năm cuối trung học Loyola,
tại thị trấn quê anh, do các linh mục
dòng Tên (jesuites) cai quản, anh đã
học qua nhiều khóa giáo lý. Khi nói
đến hôn nhân, các linh mục giảng dạy
nhấn mạnh, là phải giữ thanh khiết
trước ngày thành hôn. Ở Mỹ hiện nay
trong các trường trung học, có những
hội đoàn thanh niên nam nữ, thệ giữ
đồng trinh (virgin) trước khi lập gia
đình.
Giáo lý đưa ra nguyên tắc là không
được tách rời tình yêu ra khỏi nhục dục
(sex). Chỉ tìm thú vui xác thịt là tội lỗi.
Anh nói:
-“Tôi đã xem thường điều giảng dạy
trên, và hậu quả là đổ vỡ và hối tiếc
không nguôi. Trong 10 giới răn mà
Moise nhận lãnh từ Thượng Đế có
điều: chớ lấy vợ chồng người. Tôi đã
phạm tội trọng (péché mortel)”
Sau nầy khi tôi qua Mỹ, tôi có đến nhà
anh chơi. Anh đã 60 tuổi. Anh kể là sau
khi giải ngũ, anh trở về dạy âm nhạc tại
trường trung học Loyola, ở Wichita,
quê anh. Anh đổi qua chơi phong cầm
cho các nhà thờ. Anh rất mộ đạo và đã
yên vui xây dựng gia đình gương mẫu
trong giáo xứ. Anh khoe với tôi, các
con và cháu của anh đều là hội viên hội
“Thệ giữ đồng trinh trước ngày thành
hôn.” Trên góc bàn thờ Chúa trong nhà
có để ảnh bà Tuyết ngồi trước dương
cầm lúc ở Đà Nẵng. “Như thế để nhắc
nhở gia đình tôi cầu nguyện cho bà”,
anh nói. Trầm ngâm giây lát anh thêm:
“Những tình cảm sôi nổi, những thị
hiếu nhất thời, những say mê của trào
lưu mới, những thú vui thân xác, theo
thời gian sẽ qua đi, nhưng đạo đức,
luân lý, bổn phận, trách nhiệm, tự chế,
khắc kỷ, là trường cửu, và là những
yếu tố tạo nên giá trị của con người”.
Khánh Giao
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 17
Maman
Vẫn biết
Sinh lão bệnh tử , định luật đời người
Nhưng vẫn muốn giữ thật lâu, giữ mãi
Vòng tay ráng níu kéo, mẹ vẫn đi
Nhẹ nhàng , thanh thản giấc an lành
Còn mong lắm nụ cười trìu mến
Còn thèm nhiều mẹ chăm sóc hỏi han
Vẫn không muốn
Không rời xa , không vĩnh biệt
Chỉ là tạm biệt , mẹ thân yêu
Tố Quyên
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tố Quyên 18
Tia nắng ban mai vừa ló dạng
Giọt sương trên lá nhẹ long lanh
Cảnh hồng e thẹn khoe sắc thắm
Vương nhẹ cánh mềm đón nắng mai
Nắng ấm dần lên xoá bóng đêm
Chim muông thức giấc hót bên thềm
Vườn hoa run nhẹ cười trong gió
Ong bướm vờn bay múa điệu say
Trời xanh mây trắng nhẹ nhẹ bay
Tóc xoã vai gầy thêm ngất ngây
Dáng ai dạo ngắm vườn hoa thắm
Cho hồn thi sĩ chợt đắm say
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tố Quyên 19
Hơi thở ấm, trái tim đập từng nhịp
Cảm nhận được vui buồn
Ánh nắng ban mai, đẹp
Lòng tự nhiên vui vui
Tự nhiên thấy cuộc đời thật đẹp, thật nhiều hy vọng
Tiếng chim ríu rít
Mang đến rộn ràng, chờ đợi
Niềm tin yêu rồi sẽ đến, ngọt ngào, ấm áp
Ngước mặt lên
Bóng đêm bị đẩy lùi lại phía sau
Xa dần, xa dần
Những nỗi buồn lo dần tan biến
Cuộc sống là thế
Một chặng đường dài
Lúc gập ghềnh , lúc bằng phẳng
Lúc vui, lúc buồn
Lúc này, lúc khác
Chân vẫn phải bước
Vẫn phải đi hết chặng đường dài
Sau cơn mưa trời lại sáng
Ánh nắng lại chan hòa, ấm áp
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tố Quyên 20
Tiểu Thu
Dưới ánh mặt trời chói chang, ruộng
lúa chín trải dài từ con lộ mới vô tít
trong làng Mỹ-Nghĩa như một tấm
thảm vàng khổng lồ. Những bông lúa
no tròn rạp lên nhau theo chiều gió.
Từng đàn chim dòng dọc, chim se sẻ
bay lên, sà xuống từ chỗ nọ sang chỗ
kia như những đám mây nhỏ...
Nhà ông Cả Phương, đám thợ gặt ở nơi
khác tới cũng đã tề tựu đông đủ. Họ ăn
ở luôn tại đây. Những thợ gặt trong
làng, mỗi buổi chiều xong việc ai về
nhà nấy.
Mợ tư Tâm, dâu ông bà Cả, đang mang
thai đứa con thứ ba. Cái bầu bảy tháng
khiến mợ đi đứng nặng nề, chậm chạp.
Tuy vậy mợ vẫn phải chỉ huy đám hỏa
đầu quân nấu cơm cho thợ ăn ngày ba
buổi. Chẳng phải cao lương mỹ vị gì,
nhưng món mắm lóc chưng đường hủ,
nước đặc quánh, rắc hành tiêu thơm
phức được mọi người chiếu cố đặc
biệt. Bầu, bí, rau cải đầy vườn nên họ
cũng được ăn thả cửa. Mợ Tư đãi ngộ
đám thợ gặt rất rộng rãi nên ai cũng
ráng làm hết sức, không hề than cực.
Mỗi bữa trưa, con Ni với thằng Ban,
đứa đội thúng cơm, đứa đội thúng đồ
ăn, tay xách bình trà Huế ra đồng. Dưới
tàng cây gáo cổ thụ tỏa bóng mát như
một cây lộng khổng lồ, hai đứa bày
cơm nước trên chiếc đệm cói. Ðám thợ
gặt bu xung quanh, vừa ăn vừa cười
giỡn râm ran. Thúng cơm gạo nàng tây
trắng nõn không mấy chốc đã hết sạch.
Sau khi tráng miệng mỗi người một
trái chuối lá xiêm chín vàng lườm, họ
quay ra người ăn miếng trầu, kẻ vấn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 21
điếu thuốc rê, hút phun khói mịt mù.
Sau chén trà Huế nóng hổi, họ tiếp tục
gặt cho tới xế chiều...
Chỗ mang cá giáp con lộ mới, ông Cả
dùng làm chỗ đạp lúa. Hai con bò vừa
đạp lúa vừa nhơi rơm nhóc nhách. Sau
đó lúa được giê cho sạch hột lép, rồi đổ
trên những tấm đệm trải dài hai bên
con lộ đá
xanh. Sau vài
nắng, hột lúa
thiệt khô mới
đổ vô bồ, chờ
lái tới mua.
Rơm được
chất xung
quanh một
thân tre khô
cao độ ba, bốn
thước thành
cây rơm. Rơm
dùng cho trâu bò ăn vào mùa nước,
hoặc nướng bánh phồng, bánh tráng
trong dịp Tết. Ðôi khi dùng nướng cá
lóc, cá bông bọc đất sét cũng rất tiện
lợi.
Cứ cách một hai tối, mợ Tư lại đãi đám
thợ gặt một nồi chè đậu xanh hoặc đậu
đỏ. Nhà có vườn dừa bát ngát nên nồi
chè nào cũng được nêm nước cốt dừa
béo ngậy. Bà Cả có cằn nhằn sao hoang
phí thì mợ Tư chỉ cười chống chế:
- Tội nghiệp họ làm cực khổ quá má à.
Nồi chè đối với mình đâu có đáng bao
nhiêu.
Mà thiệt năm nào ông bà cũng cho
trồng vài công đậu ở miếng đất giáp
với nghĩa địa của đại gia đình họ
Nguyễn. Miếng đất có độ hai công nên
không đáng trồng lúa. Thiệt tình mà
nói, những gia đình có của dưới quê,
đã giàu càng ngày càng giàu thêm bởi
quanh năm họ không phải chi tiêu
nhiều cho vấn đề ăn uống. Gia đình
ông Cả Phương có vườn dừa bán trái
quanh năm. Cam, quít, soài mỗi mùa
đều có lái tới đặt cọc trước. Lúa ruộng
góp mỗi năm
cả chục ngàn
giạ. Nếu được
giá thì bán cho
lái. Không thì
cậu mợ Tư
Tâm mướn
ghe chài chở
lên Chợ-Lớn
bán cho mấy
chành lúa. Sau
mùa lúa bắt
đầu tát đìa. Ông Cả có vài cái đìa khá
lớn rải rác trong ruộng nhà. Mùa nước
lớn, ngoài đồng nước ngập mênh
mông. Tôm cá đủ loại từ sông Cái lội
vô kiếm ăn. Ðến khi nước giựt, cá từ từ
tụ lại sống trong đìa. Ngoài cá tôm,
trong đìa còn có sen, súng mọc đầy.
Mùa sen nở rộ, mỗi luồng gió thoảng
qua, mang hương thơm bay lồng lộng
khắp cánh đồng. Cứ vài hôm bà Cả sai
thằng Ban ra đìa cắt hoa sen về cho bà
cúng Phật. Cọng bông súng, mợ Tư
bóp dấm làm gỏi trộn khô cá lóc, cá
sặc, hoặc trộn với bông điên điển, lá
lụa, lá soài non chấm mắm kho cũng
ngon tuyệt vời!.. Năm nào tát đìa xong,
tôm cá nhiều quá ăn không hết, mợ Tư
và con Ni phải đem xuống chợ Cao-
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 22
Lãnh bán bớt. Gà, vịt lúc nào cũng sẵn
vài chục con trong sân. Heo vài con
trong chuồng. Mợ Tư lại có tay trồng
rau. Vạt rau sau hè lúc nào cũng xanh
tươi. Mợ cảm thấy lòng thư thái, êm ả
khi ngắm đàn bướm
đủ màu bay lượn
trên những luống cải
lấm tấm hoa vàng.
Tai nghe tiếng vo ve
của đám ong bầu,
ong vò vẽ lượn lờ
trên già bầu, giàn bí
cũng khiến lòng mợ
vui như mở hội...
Không tốn kém cho
việc ăn uống nên
đồng tiền thâu vô
phần lớn dùng để
mua thêm ruộng,
thêm vườn. Căn nhà
nền đúc đồ sộ của
ông Cả được chưng
bày hực hỡ. Bàn ghế,
tủ thờ, hoành phi, trường kỷ... được
đám thợ mộc thiện nghệ từ ngoài
Trung đi ghe bầu vô đóng tại chỗ. Gian
giữa thờ sắc Thần. Phía trước buông
rèm từ trên trần nhà xuồng tới nền gạch
bông xem thiệt uy nghi và không kém
phần huyền bí đối với lũ cháu nội, cháu
ngoại của ông bà Cả! Mỗi năm tới mùa
cúng đình, hương chức hội tề cùng dân
làng tựu lại nhà ông Cả làm lễ rước Sắc
Thần ra đình. Cúng bái liên tiếp trong
ba ngày. Tối đến có hát bội tưng bừng
náo nhiệt. Những đêm hát tuồng có đào
đẹp như Lưu Kim Ðính Giải Giá Thọ
Châu, Mộc Quế Anh Dưng Cây Đầu
Tống, Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền thì thiên
hạ coi chật rạp. Ngược lại nếu diễn
tuồng Chung Vô Diệm thì khán giả rất
thưa thớt!
Năm nào mợ Tư
Tâm cũng bị chia
phần chỉ huy ban ẩm
thực. Từ người có
chức lớn nhứt cho
tới kẻ cùng đinh
trong làng đều được
ăn uống no say nên
mọi người ai nấy đều
hể hả...
Ông Cả Phương
muốn cậu Tư sau
này ra tranh cử Hội
Ðồng nên bắt cậu
lãnh chức Xã
trưởng, là nấc thang
bắt đầu cho sự
nghiệp chánh trị về
sau. Năm đó cậu mới
vừa ba mươi. Ðẹp trai, ăn nói có duyên
lại có chức nên cậu được phái nữ hâm
mộ hết mình, báo hại mợ Tư đánh ghen
mệt nghỉ!
Mấy ngày trước khi mùa gặt bắt đầu,
cô hai Trâm là chị bà con của cậu Tư
Tâm tới gặp mợ Tư, xin cho người em
bà con bên chồng vô giúp việc. Cô hai
nỉ non:
- Tội nghiệp cổ lắm mợ ơi. Mới hăm
hai tuổi đã góa chồng. Không nghề
ngỗng lại bị bà má với đám em chồng
ăn hiếp. Cổ chịu hết nổi nên ôm quần
áo trốn lên nhà tui ở đậu. Tui thấy mợ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 23
bụng mang dạ chửa nặng nề, lại sắp tới
mùa lúa, chắc cần người phụ, nên mới
đánh liều tới hỏi mợ cho cổ làm, kiếm
miếng cơm qua ngày. Tùy mợ muốn
cho nhiêu cũng được, cổ không dám
đòi hỏi gì nhiều.
Sẵn tánh hay thương người, thấy cảnh
góa bụa lại bị ức hiếp, mợ Tư đâm
thương cảm nên đồng ý mướn liền. Cô
Hà thuộc loại mình dây, người cao
dong dỏng. Tuy mặc cái áo bà ba vải
bông, quần ú đen, nhưng không dấu
được làn da trắng hồng. Mái tóc đen
nhánh bới gọn sau ót. Cặp mắt lá răm
có đuôi, tuy hay nhìn xuống, nhưng
cũng không dấu được nét long lanh.
Lúc chào mợ Tư cô chỉ hé đôi môi,
nhưng mợ cũng thoáng thấy đôi hàm
răng trắng ngà đều đặn. Nếu một mình
cô ta tới xin giúp việc chắc mợ Tư
không dám mướn. Nhưng là em chồng
cô hai Trâm, vướng trong tình trạng
trái ngang, phải tạm đi làm nuôi thân
thì lại khác. Mợ Tư an ủi cô Hà vài câu
rồi kêu con Ni dẫn cổ xuống nhà dưới,
nơi dành cho người làm, dọn một căn
buồng nhỏ kế buồng con Ni cho cổ.
Hành trang của cô người làm mới chỉ
gọn gàng một bọc đồ nho nhỏ... Mới có
mấy ngày mà cô Hà đã được lòng hết
mọi người trong nhà. Chịu khó thức
khuya dậy sớm, làm lụng chăm chỉ, lại
nói năng ngọt ngào. Khó tánh như bà
Cả mà cũng không bắt bẻ vào đâu
được. Chỉ có hôm đầu, vừa mới thấy
mặt cô Hà, Bà Cả châu mày ngạc
nhiên, kêu mợ Tư lên nhà trên nói:
- Vợ thằng Tư thấy sao, chớ má dòm
tướng con nhỏ này đi ở mà sao mướt
rượt hà!
Mợ Tư cười hiền:
- Cổ là em bà con với anh hai chồng
chị Trâm đó má. Hoàn cảnh ngặt nghèo
mới đi ở tạm kiếm cơm. Thôi mình
cũng ráng giúp cổ ít bữa xem sao...
Bà Cả nói xuôi:
- Ừ, nhà mình đương neo người, bây
tính sao đó tính.
Con Ni chịu lắm, vì từ ngày có Hà, nó
có thì giờ rảnh để tò tí với thằng Ban
nhiều hơn. Con Ni năm nay mười bảy.
Thằng Ban mười chín. Gia đình Ban ba
đời đều làm cho ông Cả. Ông nội, rồi
tía nó đều là tá điền làm ruộng, riêng
nó được giao cho giữ bầy bò và làm
công việc lặt vặt trong nhà từ năm mới
lên mười bốn. Phần con Ni quê ở Hồng
Ngự. Lúc mợ Tư sanh đứa con thứ hai,
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 24
bà Phủ Bá, má ruột mợ trên Ðốc Vàng
Thượng, mướn nó lúc đó mới mười ba
tuổi, dắt xuống coi em. Nhà nó đông
con lại nghèo thê nghèo thảm. Có bữa
ăn cơm chỉ có rau cải trời, rau tập tàng
luộc chấm nước tương. Lúc mới tới
giúp việc, con Ni ốm lòi cả xương sườn
xương sống. Rồi nhờ ăn uống đầy đủ
chất bổ, từ từ nó trổ mả coi cũng đẹp
gái. Với thân hình tròn lẳn, chắc nịch,
mái tóc dài xức dầu dừa mướt rượt, kẹp
gọn trong chiếc kẹp ba lá. Nước da nó
ngăm ngăm nhưng hồng như trái bồ
quân. Cái mặt tròn lấm tấm mụn trứng
cá, mà hễ hở tay là nó len lén móc túi
áo, lấy cái kiếng tròn nhỏ xíu ra, đưa
ngang mặt ngắm nghía, mân mê mấy
cái mụn. Có lần ngứa tay nặn lầm cái
mụn bọc, mặt sưng vù hết cả tuần.
Miệng nó tươi lại cười toe toét suốt
ngày, nên đám trai làng đã nhiều đứa
thả lời ong bướm. Rốt cuộc nó kết
thằng Ban. Thằng này ngoài tướng tá
vạm vỡ, lại ở chung nhà, có nhiều cơ
hội gặp gỡ, chuyện trò với con Ni nên
chiếm thượng phong. Khi nhà có
khách nó còn dám dấu mấy món ngon,
lén đem cho thằng Ban ăn. Có lần bị
chú Tám Tiểu bắt gặp. Chú Tám là
người phụ trách lau chùi bàn ghế nhà
trên và khi ông bà Cả đi công chuyện
thì phụ chèo ghe hầu. Chú hơn bốn
mươi, góa vợ đã năm sáu năm nay.
Chú vừa cười vừa điểm mặt con Ni:
- Chết bây nghen. Dám dấu đồ ăn cho
thằng Ban. Mà cái thằng mạnh như
trâu cần gì ăn đồ bổ? Ốm yếu như chú
đây mới cần tới mấy món nầy. Ðưa chú
ăn dùm cho.
Con Ni nguýt:
- Chú mà yếu! Chú kêu yếu sao đêm
nào cũng ''chầu" nhà cô năm Liễu tới
khuya lơ khuya lắc mới về?
Chú Tám trợn mắt:
- Sao bây biết tao ở đằng cô năm tới
khuya?
Con Ni cười đắc thắng:
- Thôi chú đừng chối. Mới sáng hôm
qua tui lên nhà trên thay dĩa trái cây
trên bàn thờ. Thấy chú ngồi dưới gạch,
tay cầm miếng giẻ lau mấy cái chưn tủ.
Tay chú kéo qua kéo lại mà mắt nhắm
hít, cái đầu gục lên gục xuống. Hổng
thức khuya sao chú ngủ gục?
Chú tám cười xòa:
- Thôi tao sợ cái miệng bây luôn!
Mợ Tư Tâm la con Ni chằn chằn vì mợ
sợ nó lỡ dại ôm bầu. Bởi có lần mợ bắt
gặp hai đứa đang hun nhau sau vườn
chuối. Nhưng trong thâm tâm mợ cũng
muốn tác hợp cho hai đứa nó sau này.
Trong thời gian gặt lúa, người nào
cũng bận rộn từ hừng đông tới tối mịt.
Làm không hở tay nên sau bữa cơm là
lăn ra ngủ, không còn biết trời đất gì
ráo. Mợ Tư vác cái bụng bầu tròn vo đi
tới đi lui cả ngày, tới tối có khi hai bàn
chưn sưng vù, mệt đứt hơi. Leo lên
giường là mợ đánh một giấc no nê tới
gà gáy canh một. Cậu Tư lấy cớ không
muốn phá giấc ngủ của mợ nên tạm
thời di tản lên ngủ nhà trên, cạnh
phòng ông Cả. Phòng cậu mợ ở nhà
ngang, nhà dưới cho người làm và nhà
bếp. Sáng nào mợ cũng thức sớm nhứt
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 25
rồi lệt bệt xuống nhà dưới, kêu con Ni
dậy nhúm lửa nấu bữa sáng cho cả nhà
và đám thợ gặt ăn dằn bụng.
Cậu Tư ngoài việc làng cũng lăng xăng
ra đồng đôn đốc mọi người. Tối tối sau
bữa cơm cậu cũng tham gia ăn chè với
đám thợ gặt. Tài kể chuyện tiếu lâm
của cậu được tán thưởng nhiệt liệt.
Riêng lũ con trai mới lớn, còn khờ
khạo về mục trai gái, được cậu ban cho
những lời khuyên rất hữu ích. Kinh
nghiệm tình trường của cậu chất cả bồ!
... Mùa gặt qua. Giạ lúa cuối cùng cũng
đã được cho vô bồ. Ðám thợ gặt sau
khi lãnh tiền công hậu hỉ, ai về xứ nấy,
trả lại sự yên tĩnh cho gia đình ông bà
Cả. Nghỉ ngơi vài ngày rồi mọi người
sẽ bắt tay vào mục làm bánh mứt và
quết bánh phồng, lo cho cái Tết sắp
đến... Ông bà Cả có tới ba cô con dâu,
mà cô nào cũng khéo léo. Tết là dịp
cho các cô tranh tài. Thường thường
năm nào Mợ Tư Tâm cũng ăn đứt mấy
chị em dâu về mục này. Mứt bí sên
đường xong trong vắt như miếng bạch
ngọc. Mứt khoai lang thì màu hồng
cam đẹp như san hô. Rồi có cả mứt me,
mứt mãng cầu... thôi thì khách khứa tới
chúc tết ông bà Cả đều khen nức nở.
Bữa nay trăng tròn vành vạnh, đổ
xuống vạn vật một thứ ánh sáng trong
như thủy tinh, êm mát như nhung lụa.
Cơm tối xong, cậu tư Tâm nói với mợ
rằng cậu phải lại nhà ông Hương sư
Mậu họp, chắc về trễ Chuyện cậu Tư
đi chơi sau bữa cơm tối là thường, nên
mợ cũng không cần thắc mắc. Mợ chỉ
nhắc cậu như thường lệ:
- Mình nhớ đừng nhậu nhẹt quá chén,
rủi về dọc đường té bờ té bụi không ai
hay rồi mang họa.
Cậu Tư trấn an vợ:
- Anh biết rồi. Mình cứ yên tâm ngủ
ngon. Ðừng lo, anh họp chút xíu về
liền.
Ðang ngủ say, mợ Tư chợt giựt mình
tỉnh dậy vì hình như có ai đang khều.
Ðịnh hồn nhìn kỹ té ra con Ni. Mợ định
mở miệng hỏi thì nó ra hiệu biểu đừng
lên tiếng, rồi kề tai nói thì thào:
- Cô Sáu, con nhỏ kêu theo thứ của mợ
Tâm lúc còn con gái, theo con xuống
nhà dưới liền. Dượng Sáu đang ở trong
buồng chị Hà.
Nghe tới đây mợ Tư bật dậy như bị
điện giựt. Miệng há hốc nói không nên
lời. Con Ni thì thào tiếp:
- Hồi nãy con thức dậy đi tiểu. Ngang
buồng chị Hà nghe có tiếng nói chuyện
nho nhỏ. Con tưởng anh Ban nên áp tai
vô vách lắng nghe. Té ra tiếng của
dượng Sáu. Con lật đật lên kêu cô. Cô
nhớ đừng để cho dượng biết là con cho
cô hay, không thì chết con đó.
Mợ Tư nói thôi mầy về buồng trước đi
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 26
rồi tao xuống. Nhưng trước khi xuống,
mợ cầm cái đèn trứng vịt đi kiếm cây
chổi lông gà. Mợ nhè nhẹ mở cửa
buồng rồi bất thần vén mùng lên. Chu
mẹt ơi, dưới ánh trăng sáng lồng lộng
từ cửa sổ hắt vô, bộ ngực trần của cô
Hà trắng nhễ nhại. Lại còn gối đầu trên
cánh tay cậu Tư, mái tóc huyền xổ tung
coi mười phần gợi cảm. Máu ghen tràn
ứ cổ, mợ Tư tay vừa quất túi bụi,
miệng rít lên:
- Ðồ gian phu dâm phụ. Dám dở trò
khốn nạn trong nhà này. Cho mấy
người giỏi hú hí nè...
Cậu Tư vừa đỡ đòn cho tình nhân, vừa
nhảy xuống giường, a lại ôm mợ Tư
cứng ngắt:
- Thôi mà mình... Thôi mà mình...
Rồi quay qua phía cô Hà đang ngồi
chết trân trong góc giường, tay kéo hai
vạt áo cố che bộ ngực trần đang phập
phồng vì quá sợ hãi! Cậu la lên:
- Trời ơi chạy lẹ đi. Còn ngồi đó làm
chi nữa!
Cô ta như chợt tỉnh, phóng xuống
giường, chạy một mạch ra cửa sau rồi
biến dạng trong đêm tối. Bây giờ con
Ni mới lò dò bước vô, làm như vừa
thức giấc. Lúc đó cậu Tư mới dám
buông mợ ra. Mợ bật lên khóc nức nở.
Kể lể bù lu bù loa, mắng cậu lòng lang
dạ sói, mặt người lòng thú
vv...và...vv...
Cậu không ngớt vuốt ve năn nỉ. Nhưng
cậu càng nói mợ càng sôi máu la lớn
thêm. Trên nhà ông bà Cả nghe ồn ào
cũng lật đật xuống coi có chuyện gì.
Chừng nghe mợ Tư kể đầu đuôi, ông
Cả nổi tam bành, kêu cậu Tư theo ông
lên nhà trên "làm việc"! Bà Cả ở lại
khuyên nhủ mợ Tư. Khuyên một hồi
mà thấy con dâu cứ "ngoan cố" khóc
lóc mãi, bà đâm bực mình, phán cho
một câu xanh dờn:
- Ối bây khóc chi cho mệt. Ðàn ông dù
năm thê bảy thiếp cũng có hao mòn gì
đâu mà sợ? Nó chơi chán rồi cũng mò
dìa với vợ cái con cột, lo cái gì chớ?
Mà cũng tại bây, hồi đầu tao đã nói con
đó hổng giống dân đi ở đợ mà bây hổng
chịu tin. Ni đâu, dẫn cô mầy lên phòng
nghỉ.
Mợ Tư đang khóc nỉ non chợt nín
ngang vì quá đổi ngạc nhiên! Mợ có sợ
hao mòn cái gì đâu chớ? Bằng cớ là
những lần mèo chuột trước, mợ chỉ to
nhỏ với cậu trong phòng ngủ của hai
vợ chồng mà thôi. Nhưng lần này cậu
quá quắt, dám dắt nhân tình về tận nhà
gạt mợ. Vậy cậu còn coi mợ ra cái thể
thống gì nữa?! Tội lỗi đã sờ sờ ra đó
mà bà già còn binh! Mợ ấm ức không
nói không rằng, đi một nước lên nhà
ngang, vô buồng đóng chặt cửa... khóc
tiếp. Gần sáng mệt quá mới thiếp đi....
Sáng hôm sau mợ sai con Ni tom góp
mớ quần áo của con "dâm phụ", mà hồi
hôm ăn mấy chổi lông gà, sợ quá bỏ
của chạy lấy người, đưa cho mợ. Cầm
bọc quần áo, mợ Tư hầm hầm đi tới
nhà cô hai Trâm. Bà này đoán biết thế
nào giông tố cũng tới, nên đã sẵn sàng
trong tư thế... ứng chiến. Mợ Tư liệng
bọc đồ cái bịch xuống chiếc chõng tre,
rồi đưa cặp mắt toé lửa nhìn cô hai:
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 27
- Sao chị dám dẫn con quỉ cái đó tới gạt
tui? Tui làm mích lòng chị chuyện gì
mà chị nỡ nhẫn tâm hại tui như vậy, chị
nói đi!
Cô hai Trâm chấp tay năn nỉ, giọng đầy
nước mắt:
- Tại cậu Tư dẫn cổ tới nhờ tui nói vậy,
chớ có ăn gan trời tui cũng hổng dám
tự ý gạt mợ đâu. Bị mang ơn cậu mấy
lần giúp tiền đóng giấy thuế thân cho
ông nhà tui nên thiệt khó lòng từ chối
đó mợ. Mợ mở lượng hải hà tha lỗi cho
tui lần này, tui thề không bao giờ dám
tái phạm...
Cô hai nói tới đây bèn đưa chéo khăn
rằn đỏ bình thường dùng để lau cổ
trầu, lên chặm chặm cặp mắt đỏ hoe.
Mợ Tư đã mềm lòng, nhưng còn cố gằn
giọng:
- Bây giờ chị dấu con quỉ cái đó ở đâu?
Cô hai Trâm lật đật nói:
- Chèn ơi, tối hôm qua khuya lơ khuya
lắc nó tới đây đập cửa. Tui thấy điệu
bộ hớt hơ hớt hãi của nó là biết chuyện
đã đổ bể. Sáng nay gà mới gáy canh
một là tui đã kêu ông nhà tui lấy xuồng
chở nó xuống chợ Cao Lãnh rồi. Ứ hự,
thiệt khi không lãnh nợ giữa đường!
Biết nói thêm cũng vô ích, mợ Tư ra
về, lòng nặng trĩu ưu phiền. Mợ không
hiểu sao ông Tơ, bà Nguyệt cắc cớ gì
mà xe duyên cho mợ với một ông
chồng quá đỗi bay bướm như vậy? Mà
ngặt nỗi với cái miệng dẻo quẹo như
kẹo mạch nha, ngọt như đường phèn
cộng với cái tài nịnh hót thần sầu của
cậu, mợ không thể nào giận lâu được!
Tuy lần nào phạm lỗi cậu cũng thề
nặng: "Anh mà tái phạm cho Bà Chúa
Xứ vật anh hộc máu, chết không nhắm
mắt, không toàn thây..." Mợ đâu có
muốn cậu chết...yểu, bỏ mợ bơ vơ một
mình, nên lật đật bịt miệng cậu lại, rồi
nói giọng yếu xìu:
- Thôi mình đã biết lỗi em tha. Từ đây
nhớ đừng làm em giận nữa đó.
Dĩ nhiên là cậu đưa cả hai tay lên trời
thề một cách rất chân thành, rất tha
thiết. Nhưng một thời gian sau, cậu lại
quên mầt lời thề độc (có gì lạ? một nhà
tư tưởng lớn, sau nhiều năm "nghiên
kíu" đã đi đến kết luận: loài người là
một giống rất mau quên!). Cậu vẫn
thường tuyên bố với bạn bè rằng tui là
một phật tử thuần thành mà. Ðức Phật
dạy chúng ta phải thương người như
thể thương thân. Ai thương mình mình
không thương lại ắt... mang tội!
Mợ Tư thở dài não nuột. Trong thâm
tâm mợ biết cái màn bi hài kịch trên sẽ
lại tái diễn và sẽ còn tái diễn dài dài.
Cũng bởi, một là mợ thương quá là
thương cái tên chồng mất nết đó, hai
nữa cái chuyện con gái lộn nài bẻ ống,
bỏ chồng về nhà cha mẹ ruột coi...
hổng có đặng! Cho tá túc vài ngày rồi
cha mẹ mợ cũng sẽ xỏ mũi cô con gái
"dẫn độ" về trả lại bên chồng, kèm theo
một núi quà cáp. Chưa kể cái màn háy
nguýt của bà mẹ chồng cũng... nhức
nhối như bị kim đâm! Ðối với bà Cả,
đàn ông năm thê bảy thiếp là thường.
Hồi xưa bà đã từng phải chấp nhận vài
đứa con ngoại hôn của ông Cả. Rồi có
chết ai đâu?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 28
Hy vọng một ngày nào đó, cậu mõi gối
chồn chân, chán cái mục trăng hoa,
quay về với mợ vĩnh viễn. Ôi thân gái
mười hai bến nước. Mợ lỡ rơi vào bến
đục thì đành chấp nhận thương đau!
Má ruột mợ đã từng khuyên:
-Ðàn ông năm bảy lá gan. Lá ở cùng
vợ lá toan cùng người... Thôi con ráng
ngọt ngào
với nó. Làm
dữ quá nó
chán, bỏ đi
luôn thì mất
cả chì lẫn
chài!
Suy nghĩ
lan man về
tới nhà hồi
nào không
hay.Y như
mợ dự đoán,
vừa bước vô
buồng là
cậu Tư đã a thần phù ôm mợ vô lòng,
miệng mở máy:
- Mình ơi cho anh xin lỗi. Tía la anh
một trận kinh thiên động địa rồi. Anh
hối hận lắm. Anh thề với mình nếu tái
phạm...
Mới nghe tới cái điệp khúc này, mợ Tư
vội vàng bịt miệng cậu:
- Thôi làm ơn tắt dùm cái dĩa hát rè này
đi. Tui thuộc lòng hết bài bản của mấy
người rồi! Nhiêu đó đồ đi đồ lại hoài
bộ hổng chán hả?
Cậu Tư cười mơn:
- Vậy mình tha lỗi cho anh nghe mình.
Anh hứa từ nay...
Mợ Tư thở dài đánh sượt, tỏ dấu chán
nản tới cùng cực:
- Làm ơn đừng thề cũng đừng hứa. Tui
không muốn bán lúa giống đâu!
Mợ cố vùng ra khỏi lòng cậu. Nhưng
phần cái
bụng lớn
cồng kềnh,
khó xoay
trở, phần
đôi tay rắn
chắc của
cậu cứ nhứt
định ôm mợ
khít rịt, mợ
không tài
nào thoát ra
được. Rồi
những lời rủ
rỉ rù rì bên
tai, cùng với những nụ hôn, những
mơn trớn đầy kinh nghiệm của cậu
khiến mợ Tư dần dần cảm thấy từ tâm
hồn tới thể xác mềm dần... mềm dần và
cuối cùng, một lần nữa mợ lại thua một
cách thảm hại trước ông chồng có tới
năm bảy lá gan này! Mợ khép hờ đôi
mi, thở ra: Cũng tại kiếp trước mình tu
quá lố!
Tiểu Thu
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Tiểu Thu 29
X
uôi tay một giấc ngủ dài
Tan đi dĩ vãng, hình hài, thân tâm
Giã từ một cõi phù luân
Thương yêu, hờn giận cũng ngần ấy thôi
Dòng đời nước chảy mây trôi
Thoáng sinh, thoáng diệt kiếp người vừa qua
Hôm nay về gốc cội già
Gửi bầy con cháu một nhà thân thương:
Rằng ta về cõi Tây Phương
Dưới chân đức Phật nẻo đường chân như
Niết Bàn là cõi hư vô
Thân tâm tĩnh lặng bên bờ Hằng giang
Nguyễn Hải Bình
KLM Flight 671 Bruxelles-Montréal
14 tháng 9, 2013
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Hải Bình 30
Texte de Ghyslaine Delisle
Vieillir en beauté, c’est vieillir avec espoir
Être content de soi en se couchant le soir
Et lorsque viendra le point de non-recevoir
Se dire qu’au fond, ce n’est qu’un au revoir!
Tuổi hạc ta vào trong hy vọng,
An lạc thân tâm giấc ngủ về.
Đến một hôm nào khi giã biệt,
Nhủ lòng chỉ tạm một từ ly.
Nguyễn Hải Bình
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Hải Bình 31
Tưởng làRong Rêu
Mai Bình Phương
Ba là công chức thuộc Ty Bưu Điện Sa
Đéc. Công việc của ba là phát thư. Ba
làm nghề này đã gần 20 năm. Tuy là
một công chức "tép riu", lương ít
nhưng nhờ má tiện tặn khéo léo đắp đổi
qua ngày nên gia đình tạm ổn. Má sanh
cho ba 2 đứa con gái. Tôi là đứa đầu
lòng được ba đặt tên Mai, và em sanh
sau tôi 2 năm tên Cúc. Gia đình đang
bình yên hạnh phúc, thì một buổi sáng
nọ trên đường ba đạp xe đạp đi làm,
gần đến Ty Bưu Điện thì bị ngã. Khi
chúng tôi được tin tìm đến nhà thương
thì ba đã chết vì đứt mạch máu não.
Hung tin bất ngờ khiến má như người
mất hồn, còn chúng tôi chỉ biết khóc và
khóc. Cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của
những nhân viên Ty Bưu Điện, và của
bà con hàng xóm nên ba cũng được
một nấm mồ yên. Tuy đau buồn nhưng
má vẫn phải lo cho cuộc sống gia đình
không còn ba. Má bước những bước
theo mưa theo nắng với quang gánh
trên vai đi bán rong cơm tấm. Hai chị
em tôi thì ngoài những giờ đến trường
lo phụ má những việc lặt vặt… Ngày
tháng cứ thế trôi trên đôi vai gầy của
má và nỗi buồn vẫn đong đầy đôi mắt,
nhất là những ngày mưa vắng khách.
Ngày ba mất được 3 năm cũng là ngày
má thúc giục chúng tôi ra mộ cúng ba
lần cuối vì má đã quyết định đưa chúng
tôi đi tìm sống ở Sài Gòn.
Má mướn một căn nhà nhỏ ọp ẹp trong
con hẻm đường Nguyễn Thiện Thuật
thuộc khu Bàn Cờ. Nhà ngay góc ngã
tư hẻm, nhìn qua bên kia đường
Nguyễn Thiện Thuật là chợ Bàn Cờ.
Vài ngày sau đó má lại quang gánh bán
cơm tấm nhưng không còn cảnh một
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 32
nắng hai sương mà bán ngay trước hẻm
nhà. Không biết có phải nhờ sự phù hộ
của ba, hay là nhờ bí quyết làm bì và
chả do bà ngoại truyền lại, mà gánh
cơm tấm của má vẫn lai rai khách ngay
từ ngày đầu. Phần tôi phải nghỉ học để
lo việc bếp núc trong nhà và thỉnh
thoảng giúp má ngồi bán mỗi khi má
cần đi chợ mua hàng cho ngày mai.
Cúc vẫn tiếp tục học năm đệ ngũ tại
trường tư thục Nguyễn Khuyến. Nhờ
khách một ngày một đông, nên má đã
mua một cái bàn và 4 ghế bằng nylon
để khách không phải ngồi chồm hổm
như trước kia. Một ngày nọ vào giờ
vắng khách thì bất chợt người khách
trẻ đến. Anh ý tứ ngồi vào ghế và mở
lời khen:
- Món bì và chả bác làm quá ngon
khiến cháu ghiền. Má ngạc nhiên vì tuy
là khách quen nhưng chưa bao giờ
nghe cậu khách này "mở mồm mở
miệng".
- Cám ơn cậu! Cho tui tò mò chút
nhen là không biết nhà cậu có ở gần
Bàn Cờ không mà tui thấy cậu đến
đây ăn thường xuyên lắm?
- Dạ thưa bác nhà má cháu ở ngay
trong chợ bên kia đường. Má cháu có
tiệm bán vải.
- À thì ra thỉnh thoảng cậu vẫn mua
thêm một phần cho má cậu phải hôn?
- Dạ!
- Chắc cậu còn đi học?
- Dạ cháu chuẩn bị thi tú tài cuối năm
nay!
- Bác đi chợ và có biết tiệm vải của
má cháu, mà cháu tên gì?
- Dạ cháu tên Phúc. Từ đó Phúc trở nên
dạn nói chuyện với má hơn, cho đến
một ngày cũng vào giờ vắng khách thì
Phúc đến. Sau vài câu xã giao thường
lệ thì Phúc ấp úng:
- Dạ thưa bác, cháu xin bác cho phép
cháu được làm quen với con gái bác.
Má ngước mắt nhìn Phúc ngạc nhiên:
- Ủa mà cậu đã gặp con gái tui lần nào
chưa mà muốn làm quen?
- Dạ thưa chưa, nhưng cháu có thoáng
thấy một vài lần.
- Tui cám ơn cậu đã mở lời xin phép,
nhưng chuyện này còn tùy để tui hỏi
xem nó có chịu không nhen! Nhưng tại
sao cậu lại muốn quen con gái tui?
Thấy Phúc ấp úng như khó trả lời.
- Thôi được. Để tui gọi nó hỏi xem
sao. Vừa nói má vừa quay đầu vào
nhà gọi:
- Mai à, ra coi hàng cho má ra chợ chút
xíu con! Má đứng lên, nói vài câu bâng
quơ rồi lẳng lặng đi vào nhà quơ vội
chiếc nón lá treo trên vách đội lên đầu
và đi về phía chợ.
Tôi đang kiểm những món còn lại
trong gánh thì nghe một giọng nói rất
nhẹ:
- Chào cô Mai.
Tôi ngạc nhiên tự nghĩ mình có quen ai
đâu mà sao người này biết tên mình?
Tim tôi bắt đầu đập mạnh như muốn
thoát ra khỏi lồng ngực. Từ từ tôi
ngẩng đầu lên nhìn người kêu tên, và
anh là người khách duy nhất nên tôi có
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 33
nhiều bối rối.
- Dạ chào anh...
Rồi tôi ấp a ấp úng:
- Mà.. sao anh biết tên tôi?
- Mong Mai tha lỗi cho sự tò mò của
tôi vì tôi vừa nghe bác gọi.
Tôi quen Phúc từ phút-ban-đầu đó và
tình yêu như thấm dần trong tim lúc
nào không biết. Phúc đem đến cho tôi
nhiều tin tưởng và nồng nàn nhưng đôi
khi tôi tự hỏi "tình này có như bóng
mây"? vì có một đêm Phúc bất chợt
đến. Sau vài câu chào hỏi, Phúc ngập
ngừng thưa với má tôi:
- Dạ... trong bữa cơm chiều nay má con
có nói về chuyện tương lai của con. Má
con nói là má con biết chuyện tình yêu
của con với Mai, và cũng rất đồng ý
nhưng để có hạnh phúc sau này, thì
điều cần bây giờ là con phải có một
tương lai thật sáng sủa. Má đã nghĩ đến
điều này là sau kỳ thi tú tài xong, dù
đậu hay rớt thì má vẫn thu xếp cho con
đi du học. Má cũng đã lớn tuổi nên sau
này thu xếp cho con xong thì má nghĩ
đến việc sang tiệm vải rồi an phận tuổi
già! Phận làm con lại là đứa con duy
nhất của má nên tuy buồn nhưng con
không dám cãi lời vì sợ má buồn. Con
đường đột gặp bác và Mai là xin bác
tin tưởng con và cho phép Mai chờ.
Má gật gật đầu ra điều hiểu chuyện:
- Ừa, má con nói vậy cũng đúng. Thôi
thì cứ để tùy duyên hoặc theo ý trời.
Đêm đó tôi suy nghĩ lung tung không
ngủ được thì bỗng nghe má nói như
cho chính mình nghe "Bà đó về mặt
buôn bán thì rất khéo léo, bặt thiệp
nhưng trong nhà thì chắc là khó.
Thương con nhưng cũng sợ nếu sơ hở
làm phật ý thì con sẽ bỏ đi hoang…"
Tôi quay mình vào vách thở dài trong
nước mắt.
Cuối năm đó Phúc đậu tú tài và ngày
Phúc ra phi trường đi du học, tôi đã âm
thầm khóc hết nước mắt vì không tiễn
được người yêu.
Thời gian trôi nhanh như mây bay.
Năm 1972 thì Cúc đã là nữ điều dưỡng
và không lâu sau thì lấy chồng. Chồng
Cúc là lính thuộc tiểu đoàn 81/Dù.
Chắc em gái tôi giống má nên lần lượt
cũng cho ra đời 2 cô bé gái rất xinh. Bé
đầu tên Nhất Nữ và bé kế tên Nhị Nữ.
Phần má vì tuổi già sức yếu nay đau
mai ốm, nên giao gánh hàng cơm tấm
cho tôi và vui với 2 đứa cháu ngoại
được ngày nào hay ngày nấy. Tôi thì
an phận chờ Phúc và lo quán xuyến
buôn bán mong cho từng ngày qua
mau.
Tôi không biết phải nói thế nào khi
nghiêt ngã lại bất ngờ đến. Cúc, em gái
duy nhất của tôi, đã từ giã đời này chỉ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 34
một thời gian ngắn sau khi vào nhà
thương. Bác sĩ điều trị cho biết là Cúc
bị ung thư gan giai đoạn cuối. Má
nghẹn ngào ôm hai cháu vào lòng cố
nén tiếng khóc nhưng tiếng khóc yếu
ớt vẫn từng lúc vơi đầy. Ruột gan tôi
tan nát nhìn hai đứa cháu trong vòng
tay của ngoại. Thế là hết. Hết thật rồi.
Em đã đi xa nhưng không biết có gì
nuối tiếc? Được hung tin thì hôm sau
chồng Cúc về. Nhìn xác vợ nằm buông
xuôi, Quang nắm chặt hai tay cố nén
xúc động đến bồng Nhất Nữ và Nhị Nữ
cho hai bé nhìn mẹ lần cuối.
Quang bật khóc thành tiếng trước khi
giã từ trở về đơn vị. Quang an ủi và
khuyên má nguôi ngoa đau buồn. Bồng
hai con trên tay, Quang nghẹn ngào:
- Chị hai, em biết nói gì khi nhìn hai
cháu bơ vơ mất mẹ. Em chỉ biết nhờ
chị thương mà chăm sóc Nhất Nữ và
Nhị Nữ như con ruột của chị. Chị cố
gắng giúp em. Phần em thì nay đây mai
đó không biết có còn dịp về thăm gia
đình. Nghiệp lính là thế chị hai ạ.
Năm 1974 thì chiến tranh thật sự lan
rộng. Sài Gòn giao động mạnh, kẻ
chạy ngược người chạy xuôi mà không
biết phải làm gì? Buôn bán tự nhiên ế
ẩm. Gánh hàng cơm tấm cũng vắng
khách nhưng tôi vẫn nấn ná chờ. Chờ
Phúc hay chờ gì chính tôi cũng không
biết! Chuyện lo chưa tới thì chuyện
buồn lại tìm. Một đêm má ngủ và má
đã vĩnh viễn giấc ngủ ngàn thu vì động
mạch chuyển máu về tim bị nghẽn. Tôi
không còn nước mắt để khóc. Gia đình
giờ chỉ còn lại tôi, Nhất Nữ và Nhị Nữ.
Hai vai tôi bắt đầu nặng trĩu vì vừa lo
chăm sóc hai đứa nhỏ lại còn phải lo
cho gánh cơm tấm ế, nhưng cuối cùng
kham không nổi tôi đành chia tay gánh
hàng cơm tấm.
Ngày 30/4/1975. Ngày quê hương
nghiệt ngã. Ngày vận nước nổi trôi.
Sàigòn như ngừng thở. Tôi tay bồng
tay bế xuôi theo dòng người về phía
bến Bạch Đằng tìm đường lánh nạn.
******
Vancouver đang vào thu, thời tiết bắt
đầu se lạnh. Choàng thêm chiếc áo len
vào người, và qua khung cửa sổ nhìn
những chiếc lá đổi màu, Mai bất giác
thở dài: thoáng chốc đã hơn 20 năm
rồi!
“Bây giờ là mùa thu. Chiều vắng khói
sương mù. Hàng cây khô sầu úa. Hiu
hắt đứng trong mưa. Mưa như lệ tình
xưa. Lệ thấm mấy cho vừa. Lệ thương
hoa phượng rũ. Anh có nghe mùa thu?”
(Tùng Giang &Nam Lộc). Thời khắc
như cô đọng khiến Mai da diết nhớ
Phúc.
- Dạ con mời má ra ăn sáng. Tiếng mời
của Nhị Nữ khiến Mai như thấy thèn
thẹn với chính mình. Mai thẫn thờ
bước ra khỏi phòng ngủ. Nhất Nữ đang
ngồi chờ bỗng vội đứng dậy chạy lại
ôm choàng và dìu Mai ngồi vào ghế.
Mai trách yêu hai con: “ Sao hai con
không ăn trước để còn chuẩn bị đi làm
chứ!”. Nhất Nữ và Nhị Nữ cùng cười.
- Không biết má đang nhớ ai mà quên
hôm nay là chủ nhật.
Mai mặt đỏ bừng cười theo. Chuông
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 35
điện thoại reo. Nhất Nữ nhắc ống nghe
và từ đầu dây bên kia:
- Xin lỗi tôi muốn gặp cô Nhất Nữ hay
Nhị Nữ.
- Dạ tôi là Nhất Nữ, xin lỗi ông là ai.
- Tôi vừa được một người bạn cho biết
là đọc trong mục "tìm người nhà" của
một tờ báo muốn tìm ông Hoàng Trọng
Phúc trước ở trong chợ Bàn Cờ có tiệm
bán vải, nên tôi gọi vì đọc chi tiết thì
tôi nghĩ rất có thể là đúng tôi. Điều tôi
ngạc nhiên là trước kia tôi không quen
ai với cái tên đẹp như thế này.
Nhất Nữ biết là đã tìm đúng người
muốn tìm nên dí dỏm:
- Thế ông có quen người nào tên Mai
bán cơm tấm trong hẻm Nguyễn Thiện
Thuật không?
Phúc vừa mừng vừa ngạc nhiên:
- Có…có … Nhưng xin lỗi cô là gì của
bà Mai?
Nhất Nữ thân mật đổi cách xưng hô:
- Dạ thưa bác, chuyện dài dòng lắm.
Cháu là con của má Mai. Má Mai đến
bây giờ vẫn…
Nhất Nữ bỏ lửng câu nói rồi ngập
ngừng tiếp:
- Cháu nghĩ là cháu đã tìm đúng người
nhưng cháu mạn phép hỏi là bác đã…
có gia đình chưa?
- Tôi đã nói với Mai là chờ tôi sau khi
du học về, và tôi đã về nhưng Mai
không còn ở chỗ cũ. Má tôi cũng đã
mất và vì quá buồn không còn ai thân
thiết nên tôi vượt biên. Hiện tôi đang
sinh sống ở Montreal. Theo mã số
vùng thì tôi biết cô ở British
Columbia? Còn việc vợ con thì tôi vẫn
chưa nghĩ đến.
- Vậy cháu mời bác hãy đến thăm
Vancouver… Vancouver xứ lạnh tình
nồng đó bác!
Phúc hồi hộp theo dòng người ra cửa,
mắt dáo dác tìm. Khách chờ đón khá
đông. Mai chẳng biết gì vì Nhất Nữ và
Nhị Nữ chỉ nói là đưa má ra phi trường
đón một người khách quen, nhưng linh
tính như cho Mai biết, và Mai thẹn
thùng không nghĩ thêm nữa. Nhìn tấm
bảng đón với tên họ đầy đủ "Hoàng
Trọng Phúc" giơ lên cao từ tay một cô
gái, Phúc vội vàng chạy đến:
- Tôi là… Phúc đây! Nhất Nữ mừng rỡ
vội chạy đến chỗ Mai ngồi và đưa Mai
đến trước mặt Phúc:
- Má… má có nhớ bác này không? Mai
còn đang định thần thì Phúc đã ôm
chầm Mai:
- Mai, anh là Phúc.
Phúc không nói thêm được gì vì nghe
nghèn nghẹn trong cổ. Mai nhìn Phúc
nức nở khóc khiến Nhất Nữ và Nhị Nữ
cũng đầy nước mắt. Trên đường về nhà
trong xe như lắng đọng. Mai ngã đầu
vào vai Phúc thì thầm "Tưởng là rong
rêu".
Phúc âu yếm nhìn Mai ví von như "lục
bình trôi". Nhất Nữ và Nhị Nữ cùng
cười phá vỡ sự lắng đọng:
- Lục bình mà gặp rong rêu chắc là khó
gỡ phải không bác? Mai âu yếm nhìn
hai con như nói lời cảm ơn.
- Không bác cháu gì hết. Từ nay phải
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 36
gọi là ba nhen!
- Dạ! Tiếng dạ từ hai cô con gái như
một nguyện ước sẽ mang lại cho hai
người thân yêu nhất đời này mãi mãi từ
nay tay trong tay rong chơi giữa trời
quên lãng.
Trăng đêm toả sáng căn phòng lúc vơi
lúc đầy. Mai gỡ tay Phúc ra định dậy
kéo tấm màn cửa sổ cho tối lại thì Phúc
ôm chặt Mai:
- Chỉ là sáng trăng, và anh muốn trăng
đêm nay làm chứng cho tình yêu của
chúng mình…
- Em sợ ánh trăng sáng làm anh khó
ngủ.
- Trăng không làm anh khó ngủ mà chỉ
sợ em không… dỗ anh thôi! Mai chưa
kịp nói thì Phúc đã hôn trên đôi môi
nồng nàn chờ đợi của Mai. Tình yêu
như mênh mông tan loãng theo hơi thở
dồn dập mỗi khi "Bóng gương lồng
bóng đồ mi chập chùng"…
Mai bình Phương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 37
Gió mùa lao xao đong đưa bóng lá
Ngờ ngợ bước anh từng bước thật gần
Niềm riêng em gửi vào tim sỏi đá
Dấu nỗi buồn bóng lá không hóa thân
Mộng mị không vơi trong từng hơi thở
Bóng lá lung linh vẫn ngập trong hồn
Một người đang quên để một người nhớ
Lặng lẽ nơi này nghe đắng môi hôn
Em vẫn chờ anh con tim cứu rỗi
Đến ngàn sau nỗi nhớ chẳng hư hao
Rồi trách móc mình chia tay quá vội
Trên con dốc tình em khóc ngọt ngào
Như người mộng du đi tìm bóng lá
Em và bóng lá mất dấu hẹn hò
Khép kín con tim chờ ngày hóa đá
Nghiêng nghiêng bóng ngả đường về bơ vơ...
Mai Bình Phương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Mai Bình Phương 38
Xin em
khi nói tiếng xứ người
đừng quên lời xứ mẹ
nhìn giàu sang quê họ
nhớ cảnh khó quê cha.
Xin em
khi sống ở đất hiền
đừng quên người biển khổ
trên thuyền yên bến đỗ
hãy nhớ kẻ phong ba.
Xin em
nơi thời đông tiết giá
đừng quên chúng ta có mặt trời
rực rỡ trên quê hương
trong giòng máu..
Xin em
bước trên đường Tự Do
dưới màu cờ Dân Chủ
em hãy cầm biểu ngữ
và hét thật to
thay cho người bị câm tiếng.
Xin em
hãy nhớ và hãy nhớ
những bàn tay siết chặt hôm nay
là bởi những gì hôm qua đã mất
và cho những gì sẽ thấy lại ở ngày mai.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 39
Văn Đàn Lá Phong hân hạnh giới thiệu tác phẩm The Prophet của tác giả Khalil
Gibran được nhà văn Trang Châu chuyển ngữ dưới tựa đề Nhà Tiên Tri (Kỳ thứ 3)
M
ột người thợ dệt thưa:
-Xin ngài nói về Y PHỤC.
Nhà tiên tri đáp:
Quần áo các ngươi mặc phần lớn chỉ
che dấu vẻ đẹp của các ngươi mà
không che dấu những gì thiếu thẩm mỹ
nơi các ngươi.
Khi các ngươi tìm nơi quần áo chốn ẩn
náu những gì thân mật riêng tư của các
ngươi các ngươi coi chừng chỉ tìm thấy
sự trói buộc.
Chớ gì các ngươi để nắng gió gặp gỡ
da thịt các ngươi nhiều hơn là gặp gỡ
quần áo các ngươi. Vì hơi thở của đời
sống nằm trong ánh nắng và bàn tay
của đời sống nằm trong gió.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 40
Trong các ngươi có kẻ nói: Chính ngọn
bắc phong đã dệt nên quần áo chúng tôi
đang mặc.
Ta thì ta nói với các ngươi: vâng, chính
là do ngọn bắc phong. Nhưng tạo nên
sự xấu hổ là nghề của nó và những sợi
chỉ nó dùng để dệt chỉ là những đường
gân mềm yếu.
Và khi công việc hoàn tất nó cười hả
hê trong rừng.
Các ngươi đừng quên rằng kín đáo chỉ
là cái khiên để chống đỡ con mắt của
kẻ có tâm hồn vẩn đục.
Và khi không còn gì là vẩn đục nữa thì
kín đáo còn là gì nếu không là một trở
ngại hay là một vết nhơ của tư tưởng?
Các ngươi đừng quên rằng mặt đất hân
hoan lắng nghe đôi bàn chân trần của
các ngươi và gió trời sẽ nô đùa trên tóc
các ngươi.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 41
M
ột người bán hàng thưa:
- Xin ngài nói về MUA BÁN.
Nhà tiên tri đáp:
- Đất cho các ngươi trái để ăn và các
ngươi sẽ không bao giờ thiếu thốn nếu
các ngươi biết hái cho đầy tay.
Bằng cách trao đổi cho nhau của bố thí
của thiên nhiên, các ngươi sẽ được no
đủ và trù phú.
Nhưng nếu trao đổi không được thực
hiện trong nhân ái và công bằng, nó sẽ
đưa kẻ nầy đến tham lam, kẻ kia đến
đói khát.
Giữa chợ búa, những kẻ sống về nghề
biển, nghề đồng áng, nghề trồng nho,
các ngươi sẽ gặp những người thợ dệt,
thợ gốm.
Các ngươi hãy khấn nguyện thần đất
đến chứng giám và ban phước cho
những chiếc cân và những bảng so giá.
Chỉ đau khổ cho những kẻ không có
bàn tay cần cù đang dự phần vào những
chuyển nhượng của các ngươi, những
kẻ chỉ đem nước bọt để trao đổi với
công việc của các ngươi.Với những
hạng người ấy các ngươi hãy nói:
- Hãy đến đồng ruộng làm việc với
chúng tôi hoặc ra khơi cùng các anh em
chúng tôi đang làm nghề biển và tung
lưới cùng họ.
Vì đất và biển lúc nào cũng rộng lượng
với tất cả mọi người.
Và nếu có những người hát dạo, những
đoàn vũ, những người thổi sáo đến
chợ, các ngươi cũng hãy mua những gì
họ mời.
Vì họ cũng là những người biết hái trái
và hái hương thơm. Những gì họ mang
đến tuy đầy thơ mộng nhưng đó là của
ăn và của mặc cho tâm hồn các ngươi.
Trước khi rời chợ, các ngươi hãy xem
có ai ra về với hai bàn tay không.
Vì thần đất sẽ không an lòng khi thấy
trong các ngươi có kẻ nhu cầu không
được thỏa mãn.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 42
B
ây giờ một ông tòa của thị trấn
tiến đến và thưa:
- Xin ngài nói về TỘI ÁC và HÌNH
PHẠT.
Nhà tiên tri đáp:
- Khi trí óc các ngươi trôi theo gió và
vì bất cẩn các ngươi gây thiệt hại cho
kẻ khác và tất nhiên cho chính mình.
Và vì phạm pháp các ngươi phải ra hầu
tòa và phải chờ chực trong bực bội.
Cái tôi thiêng liêng của các ngươi,như
đại dương, lúc nào cũng vô nhiễm.
Như không
khí nó chỉ
nâng những
gì có cánh
bay.
Cái tôi thiêng
liêng của các
ngươi như
mặt trời.
Nó không hề
biết ngõ
ngách của
loài bọ hung
hay hang lỗ của loài rắn độc.
Nhưng không phải chỉ có cái tôi thiêng
liêng trong bản thể các ngươi.
Nơi các ngươi có nhiều thứ rất con
người và cũng có nhiều thứ không con
người.
Mà chỉ là một vật thể tí hon không hình
dáng đang mê ngủ đi trong sương mù
tìm kiếm cơn thức giấc của chính
mình.
Ta sẽ nói về phần người nơi các ngươi.
Vì chính phần người nơi các ngươi,
chứ không phải cái tôi thiêng liêng hay
vật thể tí hon đi trong sương mù, mới
biết tội ác và hình phạt.
Ta thường nghe các ngươi nói về kẻ
làm một điều xấu như hắn không còn
là đồng loại với các ngươi mà là một
kẻ xa lạ, một thành phần bất xứng
trong cộng đồng các ngươi.
Nhưng ta thì ta nói với các ngươi:
Người thánh thiện và người ngay thẳng
không thể vươn lên cao hơn những gì
cao nhất nơi
các ngươi.
Thì kẻ xấu xa
và kẻ yếu
đuối cũng
không thể rơi
xuống thấp
hơn những gì
thấp nhất nơi
các ngươi.
Cũng như
cánh lá chỉ có
thể úa vàng
với sự đồng ý âm thầm của toàn thân
cây.
Bởi thế kẻ gian phi không thể làm điều
phi pháp nếu không có sự đồng tình
của tất cả các ngươi.
Như một đoàn kiệu các ngươi cùng
tiến về cái tôi thiêng liêng của các
ngươi.
Các ngươi vừa là con đường vừa là kẻ
bộ hành đi trên con đường ấy.
Trong các ngươi khi có kẻ ngã, kẻ ấy
ngã cho những người đi sau, báo trước
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 43
cho họ biết có viên đá chắn đường.
Và kẻ ấy cũng ngã cho người đi trước,
dù nhờ nhanh chân tránh được viên đá,
nhưng lại không đẩy nó sang một bên.
Và còn những điều sau đây đè nặng lên
lòng các ngươi:
Người bị sát hại không phải không có
trách nhiệm trong cái chết của mình.
Người bị mất cắp không phải không
đáng trách khi bị để mất cắp.
Người ngay thẳng không phải vô can
trước hành động của kẻ dữ.
Người liêm
khiết không
phải không bị
mất mát trước
hành vi của kẻ
bất lương.
Vâng, kẻ thủ
phạm nhiều
khi là nạn
nhân của
chính nạn
nhân.
Và lắm khi kẻ
bị kết án phải gánh nặng thay cho
người vô tội và người toàn hảo.
Các ngươi không thể tách rời người
ngay với kẻ không ngay, người lành
với kẻ dữ,
Vì cả hai cùng đứng dưới ánh mặt trời.
Cả hai như hai loại chỉ đen trắng được
đan lẫn cùng nhau.
Và khi sợi chỉ đen bị hư bứt người thợ
dệt phải kiểm soát toàn tấm vải và coi
xét lại nghề của mình.
Trong các ngươi kẻ nào kết án người
vợ ngoại tình,
Kẻ ấy hãy cùng lúc cân đo tâm dạ
người chồng.
Kẻ nào muốn đánh đòn tên bức hiếp
hãy nhìn lòng người bị hiếp bức.
Nếu ai trong các ngươi nhân danh liêm
chính để trừng phạt, để bổ nhát rìu vào
thân cây dữ, hãy đừng quên nhìn xem
cội rễ.
Vì sự thật người ấy sẽ tìm thấy cội rễ
của sự lành lẫn sự dữ, của kẻ đơm hoa
lẫn kẻ khô cằn
đều chằn chịt
lẫn vào nhau
trong lòng đất
thâm u.
Các quan tòa,
các ngươi
muốn tỏ ra
công bằng.
Bản cáo trạng
nào các ngươi
đọc để buộc
tội kẻ ngay
thẳng ngoài mặt nhưng trộm cắp trong
lòng?
Hình phạt nào các ngươi phán để trị kẻ
mà thể xác là sát nhân trong khi chính
hồn trí y đang bị thảm sát?
Bằng cách nào các ngươi truy nã kẻ có
những hành động ác ý và áp bức, trong
khi chính y cũng bị tổn thương và bị
chà đạp?
Bằng cách nào các ngươi trừng phạt kẻ
mà lòng ăn năn to lớn hơn cả lỗi lầm y
phạm?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 44
Lòng ăn năn há chẳng phải là thứ công
lý tiêu biểu cho điều luật mà các người
muốn dùng tới sao?
Nhưng các ngươi không thể đặt sự ăn
năn lên đầu kẻ vô can lẩn rút đi khỏi
lòng kẻ phạm tội.
Tự nó, nó sẽ kêu lớn lên trong đêm tối
cho mọi người thức giấc và tự vấn lòng
mình.
Và các ngươi, những kẻ muốn tìm hiểu
công lý, làm sao các ngươi hiểu được
nếu các ngươi không nhìn mọi vật
trong ánh sáng chan hòa?
Có như thế các ngươi mới hiểu rằng
người ngay thẳng lẫn kẻ sa cơ chi là
một người đứng trước hoàng hôn giữa
đêm của cái tôi nhỏ bé và ngày của cái
tôi thiêng liêng.
Có như thế các ngươi mới hiểu rằng
viên đá lát mặt ngoài ngôi đền cũng
không quí gì hơn viên đá nằm sâu dưới
móng ngôi đền.
( Còn tiếp )
Trang Châu chuyển ngữ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu 45
Xuân về mang nỗi nhớ mong
Tình xuân chiếc bóng, nỗi lòng cô đơn
Quê hương cách mấy năm tròn
Sầu trong lặng lẽ, đêm còn lệ rơi
Tha phương nhớ cảnh, nhớ người
Nhớ câu thân phận một đời ly hương
Xuân sang xin chúc tình thương
Cầu xin đất nước bốn phương nhân hòa
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thảo Linh Phạm Xuân Hiền 46
Thuở ấy tình tôi tựa tiết xuân
Lòng nghe rạo rực với bâng khuâng
Xuân mang thổn thức hồn rung động
Đẹp mãi tình xưa dẫu một lần.
Có biết tìm đâu tình lỗi hẹn
Tình người viễn xứ biết về đâu
Xuân nay lại đến hồn tan tác
Biết tỏ cùng ai nỗi dạ sầu
Thảo Linh Phạm Xuân Hiền
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thảo Linh Phạm Xuân Hiền 47
T
hùy, Miên có một cuộc tình thơ
mộng, đằm thắm. Hai người yêu
nhau thắm thiết. Chàng nàng, thường
có những niềm ước ao xây dựng một tổ
ấm hạnh phúc, một tương lai đầy ân
tình như mong muốn. Tình yêu hai
người dàn trải ra một khung trời đầy
hoa mộng. Mỗi ngày đến là một trái
ngọt thơm ngon. Mỗi ngày đến là một
đóa hoa ngạt ngào hương sắc. Mỗi
ngày đến như những nụ non xanh của
mùa xuân đầy nhựa sống căn phồng.
Vậy mà,... vậy mà trong tâm tư nàng
mãi chìm đắm trong dằn vặt một nỗi lo
âu phiền muộn người mẹ già đang yếu
đau. Lòng áy náy ray rứt bồn chồn,
không lúc nào yên, vì sợ phải mang tội
bất hiếu và miệng đời dèm pha chê
trách. Trong đầu nàng, một dấu hỏi to
lớn cứ lởn vởn, lởn vởn... Nếu, mình đi
lấy chồng rồi ai nuôi nấng, chăm sóc
cho mẹ đây? Câu hỏi dường như không
lay chuyển, như cây đâm rễ sâu trong
đất, vững vàng. Làm nàng hoang
mang, như vầng mây đen trên đầu đang
vần vũ. Một không gian đen tối, co rúm
vây quanh như ngõ lạnh khép dần,
khép dần… không lối thoát. Cảm giác
nàng bơ vơ như giữa biển đêm đen
ngòm mù mịt.
Lại thêm một nghịch cảnh thật éo le,
Miên là con trai một trong một gia đình
khá giả, cha mẹ chàng, muốn có dâu
môn đăng hộ đối. Gia giáo nghiêm
khắc, nên Miên cũng không dám vượt
lễ giáo gia đình mà mang tội bất hiếu
với song thân. Làm cho cây tình yêu
trổ đầy những trái sầu riêng cho nhau.
Làm cho cuộc tình như dòng sông vắng
bóng chiếc đò ngang, lạnh lùng, hiu
quạnh.
Thùy hiểu được thân phận mà nuốt
chửng những giọt sầu riêng. Ôm tình
buồn trong mộng mị. Nên đã nhiều
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 48
đêm dằn vặt suy tư, rồi nàng can đảm
đi đến quyết định thôi sẽ không đi lấy
chồng. Thôi cam phận yên thân, bên
mẹ. Lo phụng dưỡng chăm sóc sức
khỏe và sẽ làm cho mẹ được an lòng.
Làm phận người con hiếu thảo. Ngày
ngày nàng luôn phấn đấu tìm những
niềm vui để cố quên đi mối tình bất
hạnh, để có được hạnh phúc bên mẹ
hiền.
Những nỗi niềm buồn riêng, tuy được
giấu kín trong tận đáy lòng. Những yên
vui như mặt
hồ nước
trong,
nhưng
không mãi
được phẳng
lặng. Đôi
khi có ngọn
gió vô tình
cuốn nhẹ
cũng làm
mặt hồ gợn
sóng lao
xao, gợi
nhớ, gợi nhớ
mang mang xa vắng. Làm cõi lòng
nàng như chiếc thuyền bé nhỏ trong
cơn bão quay cuồng. Có đôi khi đang
sinh hoạt nàng thốt những lời nói lầm
thầm, bâng quơ, những tiếng cười khô
vang nhạt nhẽo. Có đôi khi, có những
tiếng nấc khua động giữa canh khuya
làm mẹ nàng cũng ngớ ngẩn bâng
khuâng. Phải chăng, đó là những âm ẩn
ức thoát lên tự tiềm thức bị nén xuống
sâu trong đáy tâm thức, vì tình thương
dành cho mẹ. Muốn cho mẹ có hạnh
phúc, muốn có được sự an tâm trong
tuổi già của mẹ không sống trong cô
quạnh. Thật như vậy, nàng sống gượng
gạo che phủ bên ngoài lớp hạnh phúc
quá mong manh, và niềm vui giả tạo.
Nàng có mặt ở đây bên mẹ, nhưng tâm
hồn, trong cõi mộng mông lung.
Mẹ nàng rất yêu thương con, cũng
không muốn con sống sầu riêng, trong
lặng lẽ. Tuổi thanh xuân tươi đẹp rồi sẽ
khô héo theo tháng ngày qua. Đáng lẽ
ra, bây giờ
con mình
sống trong
một mái ấm
gia đình tràn
đầy niềm
vui và hạnh
phúc. Bà
biết rõ lắm
chứ. Nhưng
lòng bà, sự
ích kỷ nó
bao che hết
những lý trí
trong sáng
thiên bẩm của một người mẹ biết yêu
thương, lo cho tương lai con mình, có
được hạnh phúc. Bà luôn chê trách
người này kẻ nọ khi đến xin dạm hỏi
con bà. Rồi, bà dỗ dành… từ từ... thế
nào con cũng có tấm chồng tốt, như ý
con à. Lo gì, con còn trẻ, còn xinh mà.
Nhưng, vào những lúc thật an tịnh,
lắng đọng, bà cũng có những niềm ân
hận trỗi dậy trong lòng, mà không tiện
nói ra được. Nên, đôi khi bà cũng có
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 49
những thái độ quạu quọ, khó chịu. Bà
cũng lầm bầm, nói năng không đầu
không đuôi như tự trách mình, hay
trách đời. Trách móc bâng quơ, để
khỏa lấp những niềm ẩn ức lao xao
trong lòng. Có khi giận, có khi hờn, có
khi gắt gỏng, vô cớ, vu vơ… như
những con sóng nối đuôi nhau bủa vào
bờ quanh năm, vang đều một âm rên rỉ.
Những niềm ẩn ức trong lòng bà cũng
không nhỏ. Có rất nhiều đêm bà không
ngủ được, bà lắng nghe những dòng lệ
của mình thì thầm trách móc suốt canh
khuya. Bà cũng sống trong sự giả vờ
hạnh phúc, niềm vui hững hờ. Bà sống
trong sự hao mòn một đời thanh xuân
tươi đẹp của con. Bà sống, sống một
đời trên những niềm đau dày vò, cắn
rứt và những hạnh phúc giả vờ bởi lòng
ích kỷ của mình.
Có bình minh dịu mát nào, tươi hồng
mãi ở đằng đông trong một ngày mới
vươn lên không?
Đêm, rồi cũng phải đến. Níu giữ có
được đâu!
Bốn mùa vẫn đổi thay. Trăng tròn rồi
cũng khuyết. Nước trôi mãi vẫn thấy
chưa dừng kìa. Sống một đời người rồi
cũng phải già, rồi cũng chỉ có một lối
đi về với cát bụi, mà thôi.
Thời gian trôi như mây trời không
định. Thùy, giờ thì đang ôm ấp một mớ
tuổi xuân đã qua, tàn tạ của mùa thu
chín lịm, như những chiếc lá vàng lặng
lẽ, mong manh, trước gió đông, chờ
chực để gió cuốn bay đi… bay đi thôi.
Trong đôi mắt nàng, giờ này là một
vùng mờ trắng mênh mông, một cánh
chim bay nặng trĩu trong bầu trời quá
thênh thang, thênh thang vô tận.
Chiều xuống, ướt đẫm sương mù,
không gian mờ ảo, một cảnh tượng u
trầm yên ắng, xa xa có tiếng nhạc như
réo gọi, vọng lại u hoài lắng sâu làm
thêm se thắt cõi lòng nàng thêm trống
vắng mênh mang, mênh mang…
Nước mắt nào nhỏ xuống lấp môi khô?
Những đêm khuya khi tình về réo gọi
Những chiều thu mưa bay từng hạt nhỏ
Giọt mưa sầu rơi rụng vào tim em
…
Rót nhớ nhung đong đầy từng đêm
dài…(*)
Nàng nghe tim mình đang chết lịm, bơ
vơ, như chiếc thuyền giữa biển rộng
mù khơi.
Nguyễn Tài
(*) Trả lại thoáng mây bay. Nhạc và lời
- Hoàng Thanh Tâm.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 50
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nguyễn Tài 51
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 52
Xuân về muốn gởi chữ yêu Thương
Cõi tạm bể dâu lắm bất thường
Còn được bên nhau là hạnh phúc
Thịnh, suy chung bước một con đường
Chân thành xin gởi một tâm Hòa
Hỷ xả, từ bi sẽ vượt qua
Khác biệt, thị phi, cùng phiền não
Ân tình thêm đậm với thứ tha
Xuân về trân quý một bầu Tâm
Rộng mở tâm từ với tháng năm
Ma Phật, Phật ma, tâm dị biệt
Ý tâm quán chiếu tránh sai lầm
Chúc mừng vạn hữu được bình An
Cõi tạm vô thường lắm khổ nan
Chớ kiếm thong dong ngoài cảnh giới
Hạnh phúc do tâm được an nhàn
Xuân về xin chúc được yên vui
Phú quý, vinh hoa, nước chảy xuôi
Tri túc, tri nhàn, vui hướng thiện
Trọn đời thanh thản mỉm môi cười
Xuân sang trọn gởi tấm lòng Thành
Thành thật, thành tâm, trọng nghĩa ân
Trân quý tha nhân cùng vạn loại
Chân thành đón nhận rước tân xuân
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 53
Lặng nhìn bóng tối dần tăng
Dư đồ vỡ nát, khó khăn chất chồng
Cửu Long nay đã cạn dòng
Ải biên giặc chiếm, ruộng đồng xác xơ
Nhìn quanh lòng thấy bơ vơ
Vô tâm, vô cảm, hững hờ bủa vây
Biệt khu tiếp tục dựng xây
Non sông gấm vóc về tay giặc Tàu!
Ai người yêu nước không đau
Tổ tiên bồi đắp nay đâu cõi bờ?
Mắt mờ, trí mỏi, xác xơ
Lực không đáp ứng mong chờ của tâm!
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 54
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Văn Ngọc 55
Nắm đất
Lê Quốc
Nắm đất,
Nắm đất quê hương.
Phải là nắm đất lấy từ quê hương của
mình. Trong đó, còn có màu đất, mùi
đất, linh hồn của đất. Cái mùi không có
ở bất cứ xứ Tây, xứ Mỹ nào. Mà nắm
đất cũng không phải lấy từ San José
hay Orlando, Paris, Bruxelles hay
Moscou, Berlin. Nắm đất phải lấy từ
Sàigòn, Huế, Hà Nội hay từ bờ đê sông
Thái Bình hoặc từ Phù sa sông Cửu
Long.
Nắm đất mà một ông Tướng bị phản
đối đòi truất phế ông trong một cuộc
biều tình dữ dội của hàng chục ngàn
sinh viên và dân chúng trước dinh Thủ
Tướng tại Đại lộ Thống Nhứt Sàigòn,
là nắm đất lịch sử của ông Tướng biết
mình không chống lại được cuộc biểu
tình và áp lực các tướng lãnh đứng
đàng sau, nên cúi mình xuống hốt một
nắm đất bỏ vào một chiếc khăn mang
theo trên đường lưu vong xứ người.
Ngày đó, mấy mươi năm rồi mà người
viết còn nhớ như in trong trí: một cuộc
biểu tình lớn lao, lực lượng chính là
sinh viên, học sinh và quần chúng.
Biểu tình la ó, trương biểu ngữ phản
đối ông Tướng, sinh viên Nguyễn
trọng Nho thuộc THSVSG ( người
hiện nay là chánh án tại một quận hạt
Mỹ), đã hùng hồn ứng khẩu lên án
Hiến Chương Vũng Tàu và lên án truất
phế Tướng Quốc Trưởng Việt Nam,
được đoàn biều tình hoan hô nhiệt liệt.
Ông Tướng nầy, trước áp lực của quần
chúng và các tướng lãnh đành phải
chấp nhận lưu vong với nắm đất quê
hương và những lời tuyên bố: “Tôi ra
đi có mang theo một NẮM ĐẤT quê
hương, một ngày nào đó nhất định trở
về”.
Bốn mươi tám (48) năm sau, ông ôm
nắm đất quê hương mà đi vào lòng đất
Hoa Kỳ. Mối hận bị truất phế cũng như
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 56
niềm hy vọng trở về, cùng với nắm đất
mang theo, đều theo ông, chôn vùi nơi
đất lạ. Đó là cảnh thăng trầm hưng phế
của triều đại, lẽ thịnh suy của một đời
người và cảnh lên voi xuống chó chốn
quan trường. Tất cả đều bị dòng
Trường Giang cuồn cuộn cuốn trôi về
Đông. Tất cả đều trở về KHÔNG. Thi
hào Dương Thận đời Minh cảm nhận
sâu sắc sự tang thương biến đổi nầy
trong bài từ Lâm giang Tiên, hát theo
điệu Tây giang Nguyệt, Mao Tôn
Cương đưa vào để mở đầu truyện Tam
Quốc:
“Cổn cổn Trường Giang, Đông thệ
thủy
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu không”
Phan kế Bính dịch:
“Trường Giang cuồn cuộn chảy về
Đông
Bạc đầu ngọn sóng dập anh hùng
Thị phi thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không”
Ông Đại Tướng Quốc Trưởng ơi! Dưới
suối vàng, những dòng nầy theo hương
khói bay đến tai ông, chắc ông cũng
ngậm cười nơi chín suối! Đời là thế!
Thói đời cũng thế! Chỉ là một bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Nắm đất thiêng liêng mà ông mang
theo đã hòa lẫn máu xương của bao
chiến sĩ Việt Nam anh hùng bảo vệ quê
hương, của 58 ngàn binh sĩ Mỹ tử trận
tại chiến trường đất Việt vì lý tưởng Tự
Do Dân Chủ. Nắm đất nầy đã hòa tan
vào lòng đất Hoa Kỳ. Hồn thiêng của
chiến sĩ Việt Nam hoà quyện với anh
linh của các chiến sĩ Hoa Kỳ, phảng
phất đâu đây trên ngọn cờ của VNCH
và cờ của đất nước Hoa Kỳ. Ông
Tướng ơi! Thân xác ông đã thành cát
bụi nhưng hồn thiêng ông hãy nương
theo màu cờ của nước VNCH. Xin giữ
gìn lòng mình cho ngay thẳng, uy tín
của mình như một chính nhân quân tử,
một quân nhân chỉ biết tôn thờ “Tổ
Quốc và Danh dự” và bây giờ xin ông
hãy yên nghỉ! Linh hồn ông có linh
thiêng, hãy phò trì cho con cháu vùng
lên lấy lại quê hương đang bị Tàu dùng
quyền lực mềm, từng giờ từng phút
xâm chiếm đất nước ta.
Một bà Mẹ Việt Nam nghèo nàn, đầu
trần chân đất, không tiền không bạc, bà
chỉ tặng cho con một món quà, theo bà,
còn quý giá hơn cả vàng bạc. Để bày
tỏ tấm lòng thiết tha với phần đất
thiêng liêng của quê hương, bà ra phần
mộ của ông bà lầm thầm khấn vái rồi
xén một chút đất, cẩn thận gói vào
trong một chiếc khăn trao cho thằng
con, để tiễn đưa nó lên đường bỏ nước
ra đi:
Mẹ gói vào trong một chiếc khăn
Nắm đất quê hương dặn hãy cầm
Mai kia bờ bến nào xa lạ
Còn có bên mình hương núi sông.
Tuy không mơ ước cao xa hay hy vọng
con mình giàu có, thành đạt, bà mẹ quê
mùa chỉ trao cho con mình một “nắm
đất quê hương” để mai nầy ở một
phương trời nào đó - dù giàu hay
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 57
nghèo, thành công hay thất bại - đều
phải nhớ đến nắm đất mà mẹ đã âu yếm
trao cho con với lời nhắn nhủ: Con ơi!
nắm đất thiêng
liêng nầy chính là
đất lấy từ mồ mả
của Ông Bà, nơi tổ
tiên, dòng họ con
chôn ở đó và cũng
là đất của khắp
nước Việt Nam mà
tiền nhân đã đổ
máu để bảo vệ
trước giặc ngoại
xâm, hàng trăm
tướng lãnh đã hy
sinh dưới cờ, hàng
triệu chiến sĩ vô
danh chết âm
thầm, “không bảng vàng bia đá đề tên”,
và “mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên”,
“không ai đến khấn nguyền dâng lễ
vật”. Nhưng “máu của họ đã len vào
mạch đất, thịt cùng xương trộn lẫn với
non sông” và “ anh hồn chung với tấm
tinh trung. Đã hoà hợp làm linh hồn
giống Việt”.
Nắm đất thiêng liêng nầy đã thắm đẫm
máu xương của bao liệt nữ anh thư, anh
hùng hào kiệt, đã hy sinh để bảo vệ Tổ
Quốc, là hồn thiêng sông núi, là quê
hương của con. Con hãy nhớ khi bôn
ba xứ người, con vẫn còn một đất nước
có mồ mả tổ tiên, mồ mả tiền nhân bao
đời đổ máu để gìn giữ và nơi mà mẹ
của con gửi nắm xương tàn, khi nhắm
mắt. Đó là chuyện của một bà mẹ quê
mùa, nghèo nàn xơ xác, không bạc
không tiền, tiễn con ra đi bằng một
NẮM ĐẤT, để mong thằng con dù ở
phương trời nào cũng nhớ về quê cha,
đất tổ. Cao quý
thay tấm lòng của
một bà mẹ quê
Việt Nam!
Rồi đến Nam, một
thanh niên đang
làm lụng ngoài
đồng bị một toán
người vượt biên
bắt đi theo vì sợ lộ
bí mật, bây giờ
lang thang xứ
người. Không nắm
đất mang theo.
Không tuyên bố
trở về. Cũng không được mẹ trao nắm
đất dặn dò đưa tiễn. Những buổi buổi
chiều về nghe tiếng gió chạy lao xao
trên mấy ngọn phong già, Nam bỗng
nhớ quay quắt đến vùng đất quê hương
mình đang ở trước kia. Nam thèm nghe
cái mùi nằng nặng, hăng hắc, ẩm ướt
khó tả. Cái mùi ngai ngái của bùn non,
cỏ mục, gốc rạ ngập nước lâu ngày,
pha lẫn phân trâu bò tại cánh đồng trầm
thủy gần nhà, theo gió chiều phảng
phất vào khứu giác của Nam năm nào.
Mười mấy năm rồi mà nó vẫn còn đó,
trong mũi Nam. Cái mùi mà khi hít
vào, là nhớ đến cánh đồng ngập nước
mênh mông trong buổi chiều tà, khi
mặt trời tắt nắng, tiếng “nhắc nhen,
nhắc nhen” của đám nhái bầu trổi lên,
đệm thêm âm thanh “uyềnh oang” của
loài ễnh ương như tiếng đại hồ cầm
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 58
trong khúc nhạc giao hưởng của
Mozart, khúc nhạc gợi buồn nhớ bâng
khuâng! Tâm hồn Nam còn lan man
nhớ đến làng xóm quê nhà, nhớ đến
phần đất hương hoả, đến mộ phần của
ông bà cha mẹ.
Qua mấy tấm hình do thằng cháu gửi
qua, nhìn mộ cha mẹ điêu tàn, khói
hương vắng vẻ, phần đất hương hoả bị
người ta lấn chiếm, chỉ còn lơ thơ mấy
nắm mồ siêu vẹo, cỏ mọc hoang tàn,
gió đưa hiu hắt, Nam nghe lòng mình
quặn lên một niềm đau đớn, xót xa!
Ôi! sao mà nhớ, nhớ nhè nhẹ, không
ray rứt như mẹ nhớ con, không ngây
ngất như con thằn lằn nghiện khói
thuốc phiện, không say mê như người
nghệ sĩ nhớ ánh đèn sân khấu mà nhớ
một cái gì bảng lảng, bâng khuâng,
buồn buồn, nhưng rất thiêng liêng in
sâu trong tâm khảm không bao giờ
quên được.
Một cuộc đổi đời đau thấu tận xương!
Nam nhớ nhà, nhớ màu đất, mùi đất,
linh hồn của đất quê hương ngàn năm
của ông cha ta để lại.
Người tù cải tạo càng nhớ quê hương
hơn, khi bị giam cầm trong ngục thất:
Qua song sắt, người tù nhìn quê hương
như chết lặng, “mây chìm, gió ngủ,
sông sâu bặt tiếng gọi đò”. Tổ quốc
“văn hiến, thuần phong mỹ tục, phút
chốc bàn tay ai đó vập vùi”. Dù quê
hương đang đổi mới nhưng người tù
vẫn mong một ngày thấy lại quê hương
hào hùng của bốn ngàn năm trước:
“Quê hương ơi!
Đường quan lầy nước mắt
Điệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim ơi! Hãy giùm ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương”.
Phùng Cung - Trăng ngục
Ba nhân vật, ba giai cấp, ba địa vị, với
hai nắm đất, một mùi đất và một người
tù cải tạo nhìn quê hương nhìn qua
song sắt, dù xa cách nghìn trùng, vẫn
một lòng thương nhớ đất quê hương.
Lịch sử là một chuỗi thăng trầm hưng
phế, triều đại nầy đến triều đại kia đi,
triều đại kia đi thì triều đại khác nữa
đến thế. Triều đại biến thiên, thay đổi.
Nhưng dân tộc vẫn trường tồn. Đất
nước là một thực thể vĩnh viễn. Mặt hồ
sóng gợn lăn tăn hay ba đào giông
tố,nhưng khối nước chìm sâu dưới đáy
vẫn bất động. Bốn ngàn năm khối nước
dưới đáy hồ còn đó. Và như một văn
hào thế hệ trước nói: Nếu “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn,
nước ra còn”. Hiện nay, dù sự đổi đời
hung bạo, càn quét tất cả, đốt bỏ tất cả,
nhưng truyện Kiều, một áng văn bất hủ
vẫn còn sờ sờ ra đó. Câu nói trên là một
niềm tin sắt đá muôn đời sẽ không bao
giờ phai tàn trong lòng người dân Việt.
Dù bị giam cầm trong tù ngục như
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 59
Phùng Cung hay một ông Tướng lưu
vong với một nắm đất, một bà mẹ âu
yếm tặng con cũng một nắm đất để
thằng con, dù ở phương trời nào cũng
nhớ về quê cha đất tổ. Một thanh niên
lưu lạc xứ người vào những buồi chiều,
nghe gió chạy lao xao trên ngọn phong
già mà tưởng chừng như gió chướng
đang xập xoè trên ngọn cây bằng lăng
sau nhà, bỗng nhớ nhà thắt thẻo ruột
gan. Tất cả đều hướng vọng về quê
hương của ông cha ngàn năm để lại.
Là người Việt lưu lạc xứ người, sống
đời tha hương lữ thứ, ai cũng có những
phút giây chạnh lòng nhớ đến quê nhà,
mồ mả ông bà cha mẹ, và trên hết là
quê hương, quê hương của của bà
Trưng, bà Triệu, của Lê Lợi, Quang
Trung. Sách Quốc văn giáo khoa thư
dạy ta từ thưở nhỏ: “Chốn quê hương
là đẹp hơn cả”. Bốn mươi lăm năm trời
tha hương lữ thứ, nhớ quê nhà thắt thẻo
ruột gan! Biết ngày nào ta trở lại quê
xưa?
Lê Quốc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Lê Quốc 60
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 61
Khóc thầm trong bóng tối
Tìm tình yêu loanh quanh
Tìm trên phiến đá mỏi
Những sợi tình mong manh
Vác cây thánh giá nhỏ
Đi tìm vùng tương tư
Trên con đường bụi đỏ
Em trở giấc mộng du
Buồn theo từng đêm tối
Góp nhặt những đau thương
Bươc chân nào bước vội
Vào cõi em vô thường
Nhớ anh anh có nhớ
Gió đêm buồn ngậm ngùi
Nghe từng khoang tim vỡ
Em lần hạt Mân Côi...
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 62
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Yên Vũ 63
T
Giấc mơ bình dị của một cô gái Việt Nam…
(Viết theo tâm sự của một cô dâu Việt Nam nhân một chuyến thăm Đài Bắc)
ôi nằm bên chồng, nghe tiếng
ngáy đều của anh mà thấy lẻ loi,
cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má,
thương mình. Má đã bao nhiêu năm
nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo,
cô đơn trong đêm về tịch mịch. Nhưng
còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít
quanh đây mà sao sương đêm vẫn
hoang lạnh?
Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh
cho đời sống chật vật của gia đình tôi.
Điều này trên lý thuyết cũng không
khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan
cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết ơn
vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu
thương.
Tôi như hàng vạn người con gái Việt
Nam về quê hương chồng Đài Bắc này
để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô
vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ
thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn
tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ
có thật bao la cũng không giữ được lũ
con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê
hương.
Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng
má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã
về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu
điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày
càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày
thống nhất là ngày hận thù được thăng
hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô
giáo một trường tiểu học. Đất nước
thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần
gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa.
Má như một kẻ thua trận, gồng gánh
đưa lũ con về quê ngoại. Má giã từ Sài
Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 64
cuộc sống an bình ngày xưa. Má tảo
tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng
về sau những tháng ngày lao tù học
làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi
ra đời. Và rồi ba lại ra đi kiếm tìm tự
do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi
tìm tương lai cho cả gia đình, nhưng ba
đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên
nghỉ trong lòng đại dương. Đã không
còn phiền
não, không
còn trầm tư
trong đôi
mắt ôn nhu
ngày nào.
Chỉ thương
cho Ba, ra đi
trước khi
được về
thăm quê
nội ở bên
kia bờ Bến
Hải. (Tôi đã
được nghe chuyện kể về một giòng
sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn
ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài phía
Bắc và vùng đất tự do phương Nam).
Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng để
lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ
cười hiếm hoi trên môi má đã tắt lịm từ
ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua
nỗi chết của tâm hồn, gắng gượng sống
cho đàn con.
Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất
học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi
học. Tựa như trong thời buổi gạo châu,
củi quế, má bất lực không tìm được
thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù
lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu
chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi
vẫn thầm trách má làm những việc tào
lao. Chút vốn liếng sách vở đã không
đem được sự no ấm cho gia đình chúng
tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc
khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã
thống nhất thanh bình. Nỗi bâng
khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo
túng như
những mạng
lưới chằng
chịt, dù đã
vùng vẫy
chúng tôi
vẫn không
tài nào thoát
khỏi sự bủa
vây của túng
quẫn, nhọc
nhằn. Chị
em tôi bó
gối nhìn
nhau, nhìn má ngày càng võ vàng vì
những cơn bệnh trầm kha không
phương tiện chữa trị. Để rồi một ngày,
tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những
giấc mơ vốn dĩ rất đơn giản đến tội
nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng
đi tìm tương lai trong những nơi chốn
lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người,
đơn thuần là những món hàng, quên
hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng
trơ khoe bày tấm thân thể ngà ngọc,
danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ.
Tại nơi chốn bát nháo đó, nơi mà ranh
giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi
gặp chồng tôi.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 65
Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy
lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những
vết tích không xoá được trên gương
mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh
có vẻ dữ dằn, hung tợn.
Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình
người, đôi mắt thật đôn hậu tương
phản với nét cau có gây nên bởi những
vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là
ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người,
anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho
tôi quên đi cái
mặc cảm mình
là món hàng
biết khóc, biết
nói, biết đau,
biết tủi.
Mãi sau này tôi
mới biết tại sao
chồng tôi đã
chọn ngay tôi
giữa bao nhiêu
cô gái khác. Tôi
đã biết tại sao
anh đã chọn tôi mà không cần vạch
mắt, căng miệng tôi ra khám xét như
những người đàn ông khác. Tôi không
đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang
nhác giống cô láng giềng mà anh thầm
yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh
tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu
anh đã giật mình tưởng được tao ngộ
cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã
thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất
nhiên, người con gái ngày xưa đã
chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh
niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ
chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi. Đã
bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng
đế về sự trùng hợp huyền diệu này. Nó
đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc
men cho má và một mái gia đình với
một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù
không đồng ngôn ngữ, không đồng quá
khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng
những ánh mắt lãnh đạm, đôi khi rõ nét
miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc
hôn nhân lệch lạc, má vẫn nói nghĩa vợ
chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn,
mong rằng tôi
và chồng tôi
vẫn sóng bước
đồng hành để
trong đời sống
của tôi không
phải chỉ có
những mất mát.
Tôi nhớ ơn
chồng nhưng
chưa yêu anh
được. Cho đến
bây giờ mỗi lần
ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để
che giấu nỗi e dè, ngại ngùng khi
khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc
ngang của anh thật cận kề. Có lẽ vì
chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông
với người trong mộng của chồng. Hay
khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ
cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta
băn khoăn nhất không phải là những
yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này,
trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu
ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến
đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để
những suy tư chao động cho lòng thêm
chất ngất những niềm đau.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 66
Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng
có những khuyết điểm của nó. Cái
nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn
kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái.
Những cánh đóm lập loè trên cánh
đồng chết không có đủ sức để thắp
sáng những giấc mơ đầu đời. Và những
ngọn gió èo uột đã không chở nổi
những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm
hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế
tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có
lẽ như thế lại hay.
Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng
gặp những đồng hương. Những cô gái
thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng
người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc
cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra
những vết tím bầm trên mí mắt vành
môi của một hai chị bạn mà là nét đặc
thù của nhân dáng Việt Nam trên thành
phố Đài Bắc này; những chiếc bóng
xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt
thảng thốt, hoang mang và buồn vô
tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh
vật, tôi khó mà lẫn lộn được những
hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các
chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị
may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi
tui không hơn một món hàng hết qua
tay người này lại đến tay người khác.
Riết rồi không còn biết ai mới thật là
chồng… Hay là: kiếp trước tui ở ác,
nên bây giờ phải chịu nghiệp quả. Mà
thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị
đánh đập, không bị chuyền tay từ
người đàn ông này qua người đàn ông
khác. Nhưng tim tôi vẫn khắc khoải,
hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia
xẻ niềm tủi nhục của những chị bạn.
Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi
đồng nghĩa với những đường cùng ngõ
hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng
tôi đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi
đã không bao giờ có tuổi thanh xuân.
Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương
lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực bẫy.
Có ai hiểu những khuấy động trong
tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn của
lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội
nghiệp? Chúng tôi thường đọc thấy
những nét rẻ khinh trong mắt người
bản xứ, tôi thường phân vân tự hỏi
mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội
dám mơ ước thoát cảnh khốn cùng. Chỉ
mong sao những người cùng tiếng nói
đừng khinh miệt những cánh chim
phiêu bạt đáng thương của lũ chúng
tôi.
Có những chiều nhìn từng đàn chim
bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng
cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”,
“về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở
quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu
trong nắng chiều chập choạng nhưng
không thê lương như ở quê chồng. Về
đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 67
nơi này làm quê hương nhưng tại nơi
này biết bao nhiêu thân phận đàn bà
Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà
tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã
khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi
nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình
lênh đênh giữa giòng sông, lòng cứ
thầm hỏi những cánh hoa tim tím này
sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng
nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa,
tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã
như đám lục bình nổi trôi. Ôi những
mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô
tình, biết sẽ ra sao ngày mai.
Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê
hương mình. Một quê hương đã không
biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người
con gái yếu đuối, đa cảm. Để trong
đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao
tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc
cho mình, cho những giấc mơ sớm bị
tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai?
Trên đất nước với ngọn cờ máu, không
ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu
nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra
đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu
thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa
hững hờ, và có bao nhiêu người được
sự may mắn tình cờ như tôi.
Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan
khiên, quê hương ta đó, làm sao quên
được.
Đến một ngày, tôi không có tháng,
người uể oải, chếnh choáng với những
cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình,
mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm
giác ngất ngây trước những diệu kỳ
của đời sống. Lần đầu tiên trong đời,
lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có
sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình
cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật
dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u
trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn
phiền. Tiếng khóc chào đời của con
chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ
hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái
sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi
sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa
của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ
những tàn tro. Tôi đã sống dậy từ bao
nỗi chết. Trong tôi bao phác họa muôn
màu về một ngày mai khi đứa con bé
nhỏ của tôi bước những bước thơ ngây
vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng
những giấc mơ. Rồi từng ngày tháng
trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư
lự. Con chưa mở mắt, nhưng tim đã ấp
ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương
Việt Nam ngàn trùng xa mà những
điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh
đây. Con sẽ được nuôi dưỡng bằng
giòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết
tình hoài hương. Ước ao sao con sẽ yêu
thương quê ngoại như má luôn trân
trọng nơi chốn má chào đời.
Nếu một ngày nào, theo bước của ba,
con về quê ngoại tìm người bạn đời.
Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim.
Đừng xử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn
những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít,
đáng thương. Tội lắm cho người con
gái. Con có biết sau những nụ cười gần
như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút
thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau
những thân thể toàn vẹn là những tâm
hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 68
hờn bởi quá nhiều giông bão chung
quanh.
Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má
để dành được tiền, ta về quê thăm
ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao
quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại
tiêu điều, buồn bã quá. Sao những
người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm,
u hoài, như mắt của má. Má cũng như
con đã không bao giờ biết đến một thời
trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là
mùa nụ cười nở trên môi mọi người.
Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo
quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã
gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của
làng quê năm cũ, những năm quê ta
chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ
nghe được giọng hò trong thanh trên
những cánh đồng thênh thang trĩu nặng
bông lúa vàng của những ngày đất
nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có
những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc
mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay
bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh
mang trải trên những cánh đồng bát
ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa
như những cánh đồng ngập lúa. Ôi
những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ
ta sẽ có…
Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của
ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích.
Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về
một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho
những người đàn bà Việt Nam không
phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu
xứ lạ với những ê chề như những người
trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng
của phương Bắc.
Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh
của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau
bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm
người Việt Nam thật sự, những người
sanh ra từ bên này biển Thái Bình với
tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc,
Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua
bao hệ lụy thử thách, xa quê hương,
hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình
chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến
quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn
bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó
với quê nhà lận đận.
Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi
quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi?
Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để
những người con Việt Nam có thể trở
về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ
sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim
Việt Nam được xanh một màu hy
vọng, cho con người Việt Nam được
kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh.
Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không
còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc
loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp
luân lưu nhục nhằn.
Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện
thực!
Cấn Thị Bích Ngọc
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Bích Ngọc 69
Sao Hôm lấp lánh trời đêm
Mong cho ánh sáng tỏa miền viễn phương
Cho anh lạc lối dặm trường
Mơ về mái ấm chùn lòng dừng chân
Đêm khuya gió mãi chẳng ngừng
Trăng như thấu tỏ nỗi lòng nhớ nhung
Yêu em xa cách nghìn trùng
Anh như vầng nguyệt một vùng nhớ thương
Mong em an giấc mộng thường
Mưa ngâu rả rích xin buồn cuốn trôi
Một mai nghiệp cũ nhẹ vơi
Đôi ta cùng dạo khắp trời bắc nam
Bên cầu Ô thước tháng năm
Sông sâu biển rộng há ngăn cách tình
Núi cao cũng chẳng chênh vênh
Khi lòng chung thủy khối tình sắt son
Ngày nào hơi thở này còn
Nguyện yêu em mãi dặn lòng chẳng quên
Tên nàng ấp ủ trong tim
Giọt sương trên lá lung linh sao trời
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 70
Nhớ em nỗi nhớ chẳng vơi
Tình ca anh viết trăng ơi nhắn giùm
Dù cho nước chảy đá mòn
Tình anh mãi mãi thắm nồng tháng năm
Trăng tròn hay khuyết bao lần
Song lòng anh mãi yêu nàng lắm thôi
Đông tây cách trở mây trời
Song ngôi sao vẫn sáng ngời tim anh
Yêu em đôi mắt trữ tình
Nhìn anh âu yếm dịu hiền làm sao
Yêu em môi mọng ngọt ngào
Cho anh mơ ước dạt dào nụ hôn
Yêu em lãng mạn tâm hồn
Cho tình đẹp mãi như còn trinh nguyên
Yêu nàng cả lúc huyên thuyên
Vì lâu mới được cùng anh chuyện trò
Đêm nay anh nhớ nàng thơ
Nhìn sao lấp lánh tưởng như thấy nàng
Đi vào giấc điệp mơ màng
Thấy mình hội ngộ nồng nàn ái ân.
Nghiệp Huân Dương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 71
Covid-19
Từ dạo lan tràn COVID-19
Ai ở nhà nấy tịnh khẩu tu hành
Vắng xe ô nhiễm môi trường sạch lên
Lại thêm hy hữu nhân duyên thính Pháp
Nhìn trước nhìn sau đâu cũng thấy Phật
Thế Tôn Ngài ngự cùng khắp tâm con
Trong bầu trời xanh hay bông trắng hồng
Niệm trước niệm sau trùng trùng duyên khởi
Long Thụ Bồ Tát Ngài đâu có nói
Chẳng lập một pháp, ai hỏi Ngài khai
Chúng sanh thường chấp tự tính sâu dày
Trung Luận Bát bất hiển bày Chân đế
Tri ân Sư Phụ giảng không ngừng nghỉ
Cho con mở con mắt huệ vén màn
Từ bao lũy kiếp vọng tưởng chướng ngăn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 72
Nay nhờ Tánh Không mà tâm bớt chấp
Con mừng khấp khởi được nghe Chính Pháp
Cũng do bao kiếp tích đức cúng dường
Phụng sự Tam Bảo phước điền tư lương
Phát Bồ đề tâm nhân duyên hội đủ
Tri ân đảnh lễ Bồ tát Long Thụ
Văn Thù Sư Lợi cổ Phật Phổ môn
Thị hiện thuyết pháp sát na không ngừng
Cho người hữu duyên bừng tỉnh kiếp mộng
Sắc bất dị không biển lặng trong sóng
Thăng trầm lên xuống đi đứng nằm ngồi
Đói ăn khát uống mệt thì ngủ thôi
Thân động tâm chẳng đôi co phải trái
Không bất dị sắc bình minh thức dậy
Nhìn ra cửa sổ thấy nắng ban mai
Vươn vai chồm dậy bắt đầu một ngày
Yêu đời yêu người nụ cười trao tặng
Sắc tức thị không trong đêm có nắng
Trăng tròn Trung Thu vắng bóng Hằng Nga
Chú Cuội cây đa nhớ ai nhớ nhà
Tuy gần mà xa quê nhà muôn thuở
Không tức thị sắc trăm hoa đua nở
Tỉnh mộng mở cửa hít thở khí trời
Đậu cà bầu bí chuẩn bị trồng thôi
Rồi đây trổ quả xanh tươi phổ cúng.
Nam Mô Long Thụ Bồ Tát
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật
Nghiệp Huân Dương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 73
Nhớ thuở âý đêń gặp em môĩ ngaỳ
Nơi quań ăn mơí mở trên khu phố
Tiǹh đôǹg hương hay dańg em thơ ngây?
Mắt em tỏ anh luńg tuńg măć cở
Bố mẹ em tińh vôǹ vã dễ thương
Anh vuṇg về dạ vâng rôì lẳng lăṇg
Môĩ chiêù tôí ghé ngang quań dưǹg chân
Nhiǹ thực đơn chỉ mong thâý bońg dańg
Rôì muà hè cuñg vôị vã sơḿ taǹ
Em tưụ trươǹg tương lai traǹ hưá heṇ
Anh tiêṕ tục mơ môṇg cuǹg ańh trăng
Kỷ niêṃ đẹp trả về chân trơì tiḿ
Như cơn gió đưa em đêń môṭ ngaỳ
Và thu đêń mây đưa em xa maĩ
Môṭ ngaỳ đông quań đońg cưả từ đây
Lá thơ viết, gơỉ ai? Xuân kheṕ laị
Thâḿ thoát mà mâý thu đã trôi qua
Maí toć anh giờ đây pha maù tuyết
Em ở đâu? Xuân xanh tiǹh măṇ mà?
Quyển lưu bút cańh phươṇg đỏ coǹ gheṕ?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 74
Con đươǹg xưa, vết chân trên cỏ hôǹg
Maí trươǹg cũ haǹg me heṇ đôi lưá
Tiêńg thâỳ cô baṇ lũ ve nỉ non
Cây phươṇg vỹ coǹ khoe săć môṭ thuở
Tiêńg chim sẻ ngoaì cưả sổ liú lo
Mở mắt ra năńg chan hoà daò daṭ
Thưć dâỵ đi keỏ năńg tắt, chẳng chờ
Chaò muà hạ vui đuà trong tiêńg hát
Giâć môṇg đẹp tươi mát và hôǹ nhiên
Như đoá hoa em caì trên maí toć
Hoa xanh xanh đôi mắt em diụ hiêǹ
Anh goị em ngươì tiǹh cuả ngaỳ trươć
Nghiệp Huân Dương
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Nghiệp Huân Dương 75
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 76
T
hư viện sắp đóng cửa, Uyên Phương
sắp xếp vội vàng những chồng tập
ronéo nặng trĩu vào túi xách tay rồi đứng
lên ra khỏi cửa thư viện. Để giải tỏa sự
mệt mỏi cơ thể lẫn tâm trí, Phương hít thở
một làn hơi thật dài, vươn vai, duỗi chân
làm vài động tác cơ thể cho máu lưu
thông sau nhiều giờ ngồi học bị tê buốt cả
chân. Nàng vuốt lại mái tóc, bới cao lên
cài lại chiếc nơ nhung đen, rất thích hợp
với khuôn mặt đầy đặn và khí hậu mùa hè
quá nóng nực, oi bức của Sài thành. Thủ
đô miền Nam thời xa xưa yên bình ấy
được nổi danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.
Bao nhiêu du khách ngoại quốc ghé thăm
Sài thành tân tiến, ca ngợi sự tiếp xúc cởi
mở của người dân rất lịch lãm, chất phác
và thân thiện.
Buồn lẻ loi vì thiếu tiếng cười nói của
Hoa, người bạn học thân, Phương ngồi
trên băng đá để nghỉ mệt, chờ một lúc sẽ
gọi xe taxi đến thăm nàng. Dưới vành nón
rộng che nắng, màu áo xanh thẫm mượt
mà, Phương đưa mắt nhìn lên bầu trời
xanh lơ, những tảng mây trắng pha lẫn vài
cụm mây hồng phơn phớt bềnh bồng.
Tâm hồn nàng cũng thả lỏng, lơ lửng trôi
theo làn mây trời nhẹ lướt đến nơi ngàn
phương vô định… Nhìn qua một góc sân
trường rộng mát, che bởi tàng cây phượng
vĩ thân to đầy, những cành lá xanh mướt,
nặng trĩu những cánh hoa nở màu fushia
đỏ thắm đang khoe sắc dưới nắng chiều
vương gió nhẹ, tô điểm thêm sự thơ
mộng êm đềm của ngôi trường đại học
Dược khoa thân yêu ngày xa xưa ấy. Với
mùa thi sắp đến, sau kết quả của cuộc thi
năm cuối, là lúc chia tay các bạn cùng
khóa trong niềm vui lẫn lộn với nỗi buồn
tê tái.
Rảo mắt nhìn ra cửa trường, tình cờ Uyên
Phương thấy một chiếc xe auto màu xanh
đậm tiến chậm hướng về phía nàng đang
ngồi. Dân từ xa đi tới, trên tay cầm hai
phong bì màu đỏ báo hỷ. Nàng chợt thấy
tâm trạng hơi ngỡ ngàng khi Dân tiến lại
vui vẻ hỏi:
- Phương có khỏe không? Mang nhiều
sách nặng quá, gần thi mãn khóa rồi.
Phương đứng đó nha, Dân lái xe tới, xin
phép đưa Phương về, có ngại không?
Phương để Dân giúp đem giỏ xách tay
nặng lên xe rồi chàng mở cửa xe lịch thiệp
mời nàng vào ngồi ghế trước. Dân tự
nhiên nhìn Phương, chuyện trò vui vẻ:
- Lâu lắm không gặp Phương và anh Sáu
để hàn huyên tâm sự, hỏi thăm chừng nào
anh Sáu mới chịu giới thiệu người đẹp và
ăn mừng đây? Luôn tiện Dân xin gởi hai
thiệp hồng báo hỷ.
Uyên Phương biết là Dân sắp báo tin vui,
mời nàng đi dự buổi lễ thành hôn trong
mùa hè năm nay. Dân đã đi làm ở viện
bào chế, cũng dự định mở dược phòng sau
khi cưới vợ. Cô ấy là bạn học cùng lớp
với Dân, có nét lai tây phương, vừa đẹp
lại cởi mở yêu đời, hồn nhiên hơn
Phương. Nàng có sự so sánh hơi mặc cảm
nên đâm ra dè dặt kín đáo. Uyên Phương
âm thầm thở nhẹ rồi cười nói và tiếp
chuyện tự nhiên trước mặt Dân. Trên
đường về, Dân nhắc lại những kỷ niệm
của thời gian trung học đã qua. Dân là
người bạn trong nhóm bạn thân của anh
Sáu, hay lai vãng đến nhà chơi lúc bãi
trường, thỉnh thoảng đi ăn chung cùng
nhóm, chuyện trò vui vẻ thân tình. Sau
nầy Phương hay tránh mặt Dân, sau lần
anh ấy hỏi nàng đã có người yêu chưa?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 77
Hai người lúc đó chỉ mới chia sẻ tâm tình
để hiểu nhau hơn. Có lẽ không duyên
phận, nên anh Dân nói xem Phương như
em gái hay bạn như ngày nào. Phương
cũng thành thật đáp:
- Chúc anh Dân nhiều hạnh phúc, vui
mạnh, luôn như ý trong đời sống hôn
nhân mai sau nầy .
Anh Sáu và Dân chuyện trò vì lâu ngày
mới gặp nhau, thừa lúc ấy Phương ra
ngoài tản bộ thư giãn, chậm bước trên
đường một mình. Trời đã nhá nhem tối,
tâm hồn nàng càng xa vắng hơn; bóng
hình nàng in xuống mờ nhạt trên vỉa hè
qua mỗi bước chân đi. Hai bên đường,
ánh đèn đêm đã thắp sáng, xe cộ về đêm
thanh vắng nên chạy nhanh hơn. Những
trai thanh nữ tú, với những tà áo dài khoe
sắc tung bay trong gió, họ cười nói yêu
đời, dập dìu cùng nhau đi vào tiệm ăn hay
vũ trường. Trước rạp chiếu bóng Đại
Nam nhiều người đứng sắp hàng mua vé
vào xem phim “Vacanses romaines”.
Phương rất thích xem lại nhiều lần bộ
phim quá hay này với tình yêu ngắn ngủi,
chia tay quá cảm động. Nàng nghĩ thầm
đến lời thơ ”thư thì mỏng như suốt đời
mộng ảo, tình thì buồn như tất cả chia ly”.
Khi Phương trở về nhà, Dân vẫn còn
chuyện trò với anh Sáu. Hình như anh có
ý đợi Phương để chào từ giã rồi mới ra
về.Trông nét mặt Dân có vẻ hơi buồn
buồn.
Uyên Phương hồi tưởng lại khi được
nhận vào làm tập sự năm đầu, Dân đã đưa
nàng tới giới thiệu với ông Maurice
Nguyễn là dược sỹ chủ nhân, vừa ở Pháp
về đã mua lại dược phòng trên đường
Quang Trung Chợ Lớn, thành phố của
người Việt gốc Hoa. Thầy nhận dạy cho
sinh viên tập sự ghi tên học ở đây. Năm
đó may mà có sự quen biết của Dân, nên
Phương mới có chỗ thực tập, vì chỉ còn
một tuần nữa là trường Dược khóa sổ
bảng tên đã ghi nhận của các thầy dược
sỹ. Uyên Phương đang học PCB để vào Y
khoa, nhưng vì quá sợ hãi khi nghĩ đến
mổ xẻ xác chết, vừa sợ ma, vừa sợ hít thở
mùi formol ướp xác, nên cuối cùng nàng
đổi hướng rẽ vào đại học Dược khoa .
Năm đó có hai sinh viên tập sự tại đây,
Phương và chị Ngọc là cháu của bạn thầy.
Đó cũng là ý trời đã định, hợp với số tử vi
của nàng. Trong lúc tập sự, Phương đi xe
đạp đến dược phòng, mỗi ngày học 8 giờ,
Phương rất nhanh nhẹn và thích làm
préparations magistrales, như pha
pommades mercurielles rất công phu, pha
sirop ho, làm sérums glucosés và cũng
giúp thầy tiếp bệnh nhân, vui vẻ chỉ cách
dùng thuốc uống. Thầy du học ở Pháp về,
rất vui tánh pha trò, hay nói tiếng Pháp
khi giảng bài, ông gọi Phương là “Miss
Tango” chỉ vì đi nhanh khi đi lấy thuốc,
chị Ngọc là “Miss Slow” vì đi chậm chạp,
yểu điệu thục nữ. Thầy rất tận tình chỉ
dạy. Thầy còn trẻ chỉ khoảng 30 tuổi, còn
độc thân. Chị Ngọc được thầy đưa về tận
nhà cậu, vì cậu là bạn của thầy cùng du
học bên Pháp.
Những lúc học ở thư viện trường Dược,
Dân ngồi kế bên chỉ dẫn cách trình bài,
viết lại những gì ở dược phòng đã học, để
trình lên cho thầy Maurice Nguyễn chấm
điểm, Dân nhìn Phương tán thưởng:
- Quyển thực tập của Phương trình bài rất
khéo và đẹp mắt, viết hay lắm!
Dân rất chi tiết tỉ mỉ trong thời gian trước
đây, lúc nào cũng khuyến khích khen
nàng rất tiến bộ trong việc học, là một
người bạn nhiệt tình giúp đỡ Phương, chỉ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 78
dẫn những điểm quan trọng cần học đã
được ra đề thi của những năm trước.
Phương rất biết ơn, mến phục và kính
trọng Dân. Nàng suy nghĩ đời sinh viên
còn nhiều thay đổi, thời gian còn dài quá,
hơn nữa với tánh tình nhạy cảm, Phương
e ngại khi nhìn thấy Dân có nhiều bạn gái
cùng khóa thân tình vui vẻ, nên Phương
trầm lặng tôn trong sự lựa chọn của Dân.
Nàng rất tự ái và cũng không muốn vướng
vào chuyện phiền muộn vì “đường vào
tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu”.
Bước qua năm thứ hai, Phương chú ý đến
việc học là chính, vì tương lai và nghĩ sẽ
làm vui lòng Ba mỗi khi thi đậu cuối năm.
Phương yên tâm lo học, chia sẻ bài vở với
cô bạn thân cùng khóa. Kim Hoa là người
bạn học vui vẻ, có óc khôi hài duyên
dáng, rất siêng học. Ba Hoa xem Phương
như con trong gia đình. Ông sau khi đi
làm về, thường hay ghé chợ Cũ mua quà,
như bánh mì thịt xá xíu, thịt vịt quay,
mang về cho cả nhà ăn vào bữa cơm
chiều. Hai đứa ngồi ăn khi đói, để lấy sức
học bài lâu dài, chăm chỉ hơn. Nhà Uyên
Phương gần nhà Hoa, để tránh cô đơn, lo
ra nên Hoa hay lại nhà Phương mỗi lúc
cận ngày thi để cùng ôn lại bài đã học.
Năm năm miệt mài qua bao nhiêu cố gắng
để nuốt những môn hóa học hữu cơ, hóa
học về thực vật, những tên họ cây thuốc
miền Nam Việt Nam, những công thức
dài chằng chịt khó nhớ với tên gốc và tên
thương mại của các dược phẩm Tây
phương, cách sử dụng, tác dụng phụ và
chống tác dụng giữa thuốc và thức ăn. Để
tránh buồn chán phải nhai đi nhai lại
những môn đó, nên Hoa thích lại nhà
Phương cô bạn thân học chung.
Những chiều sau giờ cơm hai nàng lên
sân thượng. Dưới trời cao gió lộng thoáng
mát, hai người vừa nghỉ ngơi vừa ngắm
hoa. Những chậu hoa giấy với muôn sắc
màu rực thắm, những dàn treo, những giỏ
phong lan quí hiếm kiêu kỳ, các chậu hoa
mai vàng anh, hoa cúc trắng đại đóa lung
linh dưới nắng chiều nhẹ vương. Hai đứa
cùng nhau vừa đi qua đi lại, miệng lải
nhải đọc lớn tiếng nhiều lần lập lại những
bài học như những con két học nói thuộc
lòng, mới nhét được tất cả vào trí nhớ.
Phương nhớ lại có một hôm, hai anh
chàng trẻ người Tàu lai đang chơi đánh
cờ bên sân thượng lầu gần bên, ngừng lại
nhìn qua bên này chọc phá:
- Hai nàng tiên đẹp đang luyện chưởng
sao lớn tiếng quá vậy, làm chia trí hai
người dưới trần gian đang luyện cờ không
tập trung được!
Hoa liền trả đũa:
- Các anh không hiểu các môn học tiếng
Pháp thì nghe như vịt nghe sấm, cứ việc
tiếp tục chơi cờ, để ý đến hai nàng tiên
giáng trần làm chi.
Uyên Phương nhớ lại sau khi đậu tú tài
hai chương trình Pháp, nàng đi lại nhà
ông Trần hữu Ích, thầy xem tử vi nổi danh
thời đó, ở đường Nguyễn Công trứ gần
nhà Phương. Đi bộ chỉ 15 phút, vào sâu
trong ngõ hẻm, có hai dãy nhà nhỏ xinh
xắn trồng vài chậu hoa cúc vàng, hoa vạn
thọ rực rỡ trước sân. Nàng hiếu kỳ muốn
biết tương lai cuộc đời mình sẽ ra sao?
Vào lúc trưa nắng chói chan, Uyên
Phương mặc bộ quần áo lụa nội hóa màu
kem, đi tới nhà ông thầy tử vi. Khi vào
nhà cửa để ngỏ, thấy ông ấy phốp pháp
ngồi trên một ghế bành lớn, tay phe phẩy
chiếc quạt lông to như để xua đuổi cái
nóng ẩm ướt của căn phòng nhỏ hẹp. Ông
ngồi trước chiếc bàn cây đầy các chồng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 79
sách nghiên cứu về khoa học tử vi viết
bầng chữ Tàu; sau lưng ông còn một kệ
đầy sách cũ sắp gọn gàng. Ông chào hỏi
rồi cười bảo:
- Cô nầy đến hỏi dò thăm thi cử hay tình
duyên ra sao phải không? Chắc nôn nóng
nên không thông báo trước. May mà tôi
không có hẹn trước hôm nay, nên có thể
ngồi tiếp chuyện cùng cô.
Ông ấy nhìn nàng với ánh mắt rất sắc,
xem qua tướng mạo; vài phút sau mới hỏi
tuổi, tháng ngày giờ sanh chính xác trên
giấy khai sanh mà nàng cầm trên tay, để
ông chuyển qua ngày tháng âm lịch dễ
dàng. Chữ ông viết như phóng họa trên tờ
giấy lụa trắng đặc biệt, với 12 ô vuông
đầy tên các vì sao viết mực đỏ, có những
lằn gạch chiếu qua chiếu lại. Ông lập lá
số tử vi rất nhanh.
Ông bắt đầu nói to với giọng miền Bắc
Hải Phòng có chút lơ lớ lai Tàu, nghe
cũng vui tai. Phương rất hiếu kỳ muốn tìm
hiểu khoa tử vi, nên rất chăm chú theo dõi
sự giải đáp lá số theo vị trí các vì sao tọa
tại 12 cung. Ông ra vẻ huyền bí nhìn vào
nét mặt của Phương và nói:
- Cô sanh vào giờ mão ngày 26 tháng 12
âm lịch, vào mùa xuân gần ngày Tết, cục
thổ mạng kim, về tướng số rất thuận
chiều. Cô có chùm sao Thiên cơ, Thiên
lương, Bát tọa tại mệnh nên số nầy hợp
với ngành nghề lương thiện giáo chức,
cung chiếu mệnh là chùm sao Quốc ấn,
Thái Tuế, Tướng quân những sao nầy
phải ở thế tốt nghiệp đại học, nhưng làm
thương mại nên tiền vào tiền ra lớn, có
nhiều nhân viên, Tam Thai, Hoa Cái hiện
giờ thì gầy nhưng cô sẽ bệ vệ hơn về sau,
lấy chồng khác miền hoặc người ngoại
quốc tốt nghiệp đại học, văn xương văn
khúc hóa khoa bác sỹ ở cung tử túc, 4 con
sẽ ở hải ngoại, thành danh tốt nghiệp vẻ
vang, sao thái tuế ở cung thiên di chiếu
mệnh nên cô phải đứng ra gánh vác mọi
việc trong gia đình, nên lập gia thất muộn
thì tốt hơn, cung điền trạch có hai sao cô
thần quả tú nên giữ tài sản như mua nhà
cửa hay đất đai, tiền giấy không đậu được
lâu và có thể bị mất lớn trong khoảng thời
gian 35-45 tuối vì đến hạn bị chiếu bởi
hai sao địa không địa kiếp.
Sau khi trao tiền lấy lá số tử vi, ông cầm
lấy cám ơn và vui vẻ bảo:
- Nhà cô ở gần nhà tôi, khi nào có hỷ sự
thì tới mời tôi chia vui cùng cô nhé!
Uyên Phương ra về lòng vui vui, nhưng
không tin lời giải đáp của lá số tử vi, vì
nàng không thể nào du học ra nước ngoài.
Ba nàng có bao giờ đồng ý cho con gái đi
học xa đâu! Hiện giờ được định cư ở
Canada, nhìn lại sự việc qua dòng thời
gian, mấy chục năm trôi qua, thì thấy
khoa bói tử vi có vài phần đúng với sự
thật.
Vào tháng bảy sau kỳ thi cuối cùng, bảng
tên kết quả mãn khóa được niêm yết trên
tường phía sau gần cửa ra vào trường đại
học Dược khoa. Vào lúc 9 giờ buổi sáng,
Phương cùng nhóm bạn học thân hẹn gặp
nhau, Uyên Phương và Kim Hoa nhìn từ
trên xuống dưới bảng tên kết quả, thấy tên
mình thì sung sướng nhảy lên ôm nhau
vui mừng. Sau đó dò lại bảng kết quả
không thấy tên Hà và Hương, Phương và
Hoa muốn chạy đi tìm hai bạn để an ủi,
nhưng chắc hai người vì quá buồn, thất
vọng, đã tách riêng không từ giã lặng lẽ
ra về.
Hai cô nàng hí hửng vui vẻ, tâm hồn thơi
thới, thong thả đi ra cửa trường đại học,
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 80
nhẹ bước bên nhau, cũng không biết đi
đâu, sẽ làm gì sau đó. Sau cùng hai đứa đi
vào sở thú cạnh bên hông trường Dược
trên đường Cường Để. Đầu óc thanh thản
không còn vướng bận thi cử, từ lâu bị
giam hãm trong thư viện, khi được thoát
ra như chim sổ lồng, hai nàng chỉ nghĩ
đến thư giãn tinh thần, chỉ thích ngắm
nhìn cảnh vật sống động tươi vui thanh
mát. Khi đi ngang qua cây cầu vòng trên
hồ nước nhỏ dưới tàng phượng vĩ, thấy
một chú bé trai độ mười tuổi bán dạo với
thùng cà rem cây nặng trĩu hai vai, đang
ngồi nghỉ mệt. Thấy hai nàng, nó cất tiếng
rao. Tiếng rao cao vút của nó khiến hai
nàng thèm ăn vặt bèn ngoắc tay kêu nó.
Thằng bé liền chạy lại, lấy cà rem cây ra
mời và không quên ngợi khen:
- Hai chị xinh đẹp quá, mua giúp mở hàng
cho em, cà rem chocolat ngon lắm, sáng
tới bây giờ em chưa bán được đồng nào
hết!
Lòng thương hại, nhìn tình cảnh nghèo
khổ tuổi thơ, không được sanh ra trong
gia đình khá giả để được cắp sách đến
trường học như bao nhiêu trẻ em khác,
Phương liền mua giúp hai cây kem bọc
chocolat, trả tiền gấp đôi và cho thêm tiền
lẻ còn lại, để giúp đỡ cho chú bé tội
nghiệp nầy. Chú bé nở nụ cười mừng rỡ,
cám ơn hai chị rối rít:
-Hai chị có thường đi sở thú chơi không?
Lần sau gặp em sẽ bán cà rem ngon hơn.
Phương thấy thương tâm và hỏi:
- Cha mẹ và anh em của bé ở đâu?
Nghe hai chị thương tình an ủi, thằng bé
tủi thân nên khóc, hai hàng nước mắt rơi
xuống lả tả trên khuôn mặt ngây thơ khốn
khổ. Nó cố quẹt đi những giọt lệ với hai
bàn tay gầy ốm xanh xao, nhưng sau đó
chú bé cúi đầu chào hai chị, vội vàng chạy
đi bán hàng rong như mọi ngày. Phương
và Hoa nhìn theo nó không kèm nổi xót
xa, liên tưởng suy nghĩ đến” thuyết
thưởng phạt do đời sống ở khiếp trước
tạo nghiệp, số mệnh con người do
Thượng Đế đã an bài”!
Hai nàng tìm chỗ ngồi trên một chiếc ghế
cây để ăn kem, núp bóng dưới hàng liễu
rũ nên thơ bên hồ nước nhỏ, nhìn đàn vịt
bơi lội lướt qua lại rất đẹp mắt. Trên thảm
cỏ cạnh những ô vuông trồng nhiều luống
hoa tươi sắc màu rực rỡ, mùi hương
thoang thoảng lan rộng trong khí trời.
Những chú chim non nhảy nhót qua lại
tìm thức ăn, tập bay lên xuống chuyền qua
lại nhiều cành, tiếng kêu chim chíp gọi
chim mẹ, tiếng hót lảnh lót của chú chim
màu lông đỏ bên kia hồ, vang dội trong
không gian yên tĩnh, tiếng ve sầu rỉ rả đâu
đây làm cho tâm hồn con người trở nên
mơ mộng hữu tình, hòa điệu với thiên
nhiên dưới ánh nắng ấm mặt trời buổi
ban mai. Thời gian ngắn rất trân quí nầy,
nhàn hạ nhất, không có chi phải suy nghĩ
vướng bận, những chuyện đau đầu rồi
việc gì sắp đến, cũng có sự sắp xếp của
Thượng đế. Uyên Phương đề nghị với
Kim Hoa ngồi chung cyclo đạp dạo mát
quanh phố rồi đến các cửa hàng bán tơ lụa
đẹp ở đường Tự Do chọn hàng may áo
dài mới, để dự tiệc chung vui của ban tổ
chức mãn khóa.
Buồi dạ tiệc hôm đó bán hết vé, rất đông
giới sinh viên các trường đến dự. Có
nhiều anh bạn xin dự tiệc mà không có
chỗ ngồi. Phần ẩm thực gồm có: nước giải
khát, trái cây bánh ngọt, và thức ăn nhẹ
cầm tay như chả giò, hoành thánh chiên,
bánh mì chiên tôm thịt v..v.. do các cô
tình nguyện làm bán để có tiền dư giúp đỡ
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 81
cho những trẻ mồ côi ở cô nhi viện. Nhiều
dược sỹ đẹp thành công trong khóa học
lên trình diễn thời trang, múa những vũ
khúc quê hương. Hoa và Phương ở trong
ban tiếp tân. Một cô bạn học rất giỏi được
chấm á hậu kỳ thi hoa hậu trong năm, mặc
áo soirée trắng có vương miện kim cương
sáng lấp lánh trong đêm, đẹp như thiên
thần làm các anh sinh viên y khoa nhìn
theo dáng nàng chiêm ngưỡng, si tình
không chớp mắt. Một anh sinh viên y
khoa sắp ra trường được các soeurs làm
thiện nguyện đãi ăn, chỉ vì muốn chiêm
ngưỡng người đẹp mà đến trễ bị các
soeurs trách móc. Cô dược sỹ Kim Hoàng
(em của diển viên điện ảnh Lê Quỳnh )
hát ca khúc tuyệt vời “ đường nào lên
thiên thai” của nhạc sỹ Văn Cao cất lên
với giọng truyền cảm. Có nhiều anh vui
nhộn đáp lại "đường vào Y khoa" rồi vỗ
tay tán thưởng vang dội cả hội trường
làm cho cô ấy thẹn thùng đỏ mặt quên tiếp
tục lời của bài hát.
Những kỷ niệm khó quên của thời vàng
son tuổi trẻ thành công là niềm kiêu hãnh
theo suốt cuộc đời mai sau. Trước khi
chia tay bắt đầu vào cuộc sống mới, với
đầy trách nhiệm của người dược sỹ,
không biết ngày nào còn có cơ hội gặp lại
nhau? Ngày hôm sau Uyên Phương đề
nghị Hoa cùng nhau đãi ăn an ủi Hà,
Hương, cùng mời Lan Dung đi ăn khao
cho ấm lòng những cô bạn thân.
Hoa nói chúng mình phải đi ăn ngon, no
cho bõ thèm lâu nay. Ăn bữa trưa Phương
thích thưởng thức cháo cá ở đường Hàm
Nghi chợ cũ quá tuyệt vời nhờ có ông tàu
bụng phệ lâu nay vẫn đứng nấu đúng
hương vị. Hoa vui quá, tham ăn và muốn
kéo dài thời gian tâm sự chuyện trò bên
nhau nên cả đám tiếp tục đi bộ đến đường
Nguyễn Huệ ăn buổi chiều ở tiệm Mì Hảo
Huê rồi uống nước mía Viễn đông. Sau
đó trải qua một ngày ăn uống như ý, lại
lưu luyến nhau trong lúc còn độc thân
chưa bị ràng buộc bởi chuyện hôn nhân,
không muốn chia tay liền nên rủ nhau vào
rạp cinéma Lê Lợi xem phim La
récréation của Francoise Sagan. Những
kỷ niệm của thời xa xưa thân ái, đầy chân
tình, mãi mãi ghi khắc trong tâm hồn
Uyên Phương.
Trong thời gian kể tiếp, Kim Hoa và Lan
Dung hai đứa bạn thân của Phương tốt số
đang vào giai đoạn tâm tình ướt át vui vẻ
với bạn trai. Phương không muốn làm
phiền họ, một mình hơi buồn, nàng đạp
xe đạp lang thang dạo phố rồi đến nhà
sách Khai Trí tìm sách đọc, mua những
bản nhạc Pháp chọn lựa của tuổi trẻ thời
thượng. Tình cờ một hôm, nàng gặp lại
thầy Maurice trong tiệm sách. Dáng dấp
ông quen thuộc không thay đổi. Ông quá
mừng vui vẻ băng qua những hàng kệ
sách tiến lại gần Phương hỏi han:
- Chào cô sinh viên của tôi, bây giờ cô là
dược sỹ đồng nghiệp rồi, thì đừng gọi là
thầy mà là anh nhé! Cô có gia đình chưa?
Sao không mời ăn khao để trả ơn tôi dạy
cô học? Hôm nay cô rảnh không? Tôi
mừng cô tốt nghiệp dược sỹ trước, sau đó
cô nợ tôi một bữa ăn trả ơn ngày khác
được không?
Phương hơi lúng túng nhưng cố làm vẻ
thản nhiên đáp:
- Chị Ngọc cũng ra dược sỹ rồi, phải cùng
khao thầy đúng không?
Thầy có vẻ buồn, vì chị Ngọc đã có ý
trung nhân rồi, còn Phương thì tâm tình
còn lờ mờ, chưa muốn cùng thầy đi đôi,
vì chênh lệch tuổi tác, nên nói tiếp:
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 82
- Thật sự là chiều nay ba mẹ muốn
Phương đi lại thăm chú đang nằm ở bệnh
viện Grall, xin phép thầy cho Phương hẹn
lại hôm khác vậy.
- Cô nhớ giữ lời hứa, đừng quên nhé! Tôi
chờ cô.
Phương chào thầy đi trước, vì sợ trễ giờ
thăm chú. Trên đường về nhà, Phương
cũng hơi xao xuyến, vì thầy cũng chính
chắn ở tuổi 34, đẹp trai nhưng hơi khó
tánh, nàng không muốn suy nghĩ gì nữa
hết, que sera sera.
Hai tuần sau Bộ Y tế gọi các sinh viên đã
tốt nghiệp trình diện đề nhận bằng cho
phép hành nghề. Nhưng khóa tháng
7/1966 đầu tiên, đặc biệt có những phái
đoàn y tế các nước tự do trên thế giới cùng
tham dự lần đầu, nên Bộ yêu cầu những
Trung Tâm Y tế Toàn Khoa các tỉnh miền
Nam Việt Nam phải có sự hiện diện của
nữ dược sỹ. Nam dược sỹ thi hành nhiệm
vụ trong quân đội. Bộ Y Tế mở ra cuộc
bắt thăm tất cả phải tham dự hôm đó, nếu
trúng thăm ghi “Có và tên của Tỉnh” thì
phải chấp nhận thi hành nhiệm vụ trong
hai năm, giúp người dân trong thời chiến.
Uyên Phương bắt trúng thăm ghi có và
tên tỉnh Pleiku, nàng vội hỏi anh nhân
viên Bộ Y Tế tỉnh đó là ở đâu, mới biết ra
là một tỉnh của vùng hai chiến thuật, miền
gió bụi mưa bùn đất đỏ, vùng Cao nguyên
rừng núi hoang vu lạnh rét, thành phố của
lính. Nàng khóc như mưa, nước mắt ướt
đẩm khăn tay, mờ cả mắt, nghẹn ngào
nói:
- Xin nhờ bác sỹ Bộ Trưởng Y Tế Trần
Văn Lữ Y lưu ý, nếu có nam dược sỹ miễn
dịch, xin cho trám chỗ lên thay thế tôi.
Ngài Bộ Trưởng cười vui nhộn và pha trò
trong sự đau khổ của Phương:
- Tôi tóm được cậu dược sỹ n không ra
trận được sẽ đẩy lên thay cô vậy! Nếu có
thì tôi thông báo cho cô sau. Tôi bảo bác
sỹ giám đốc Trung Tâm Y Tế Pleiku lo
cho cô nơi ăn chốn ở đầy đủ, không để cô
làm việc nhiều với các bác sỹ Mỹ
Miffapp, cô đừng lo sợ quá, sanh bệnh rồi
bỏ nhiệm sở không được đâu.
Trước khi đi Pleiku, Phương tới từ giã
thầy và mời thầy một bữa ăn chiều tại
tiệm ăn Thanh Thế. Vẻ mặt đượm buồn,
mắt ứa lệ, giọng nàng run run phàn nàn:
-Một tháng sau, Phương phải đi làm ở
tỉnh Pleiku, làng Thượng xa lắm, nên
không có dịp trò chuyện thường xuyên
cùng thầy, tiếc quá! Thầy nhớ giữ gìn sức
khỏe, chúc thầy tìm được người bạn đời
trẻ đep như ý. Thôi thì Phương sẽ phải tập
hát bài “Buồn ơi chào mi của Francoise
Sagan”. Thầy nhìn Phương với vẻ buồn,
rồi thầy an ủi Phương, giọng đầy lưu
luyến:
- Thời gian hai năm cũng sẽ qua mau, còn
tùy thuộc vào tình ý và duyên số mỗi
người.
Ngày nhậm chức đã tới. Uyên Phương
đến phi trường Cù Hanh sau chuyến bay
không có nhiều hành khách. Nhà sàn sân
bay là một gian nhà mái tôle, nền đất đỏ
ẩm ướt trơn trợt. Uyên Phương cảm thấy
quá chán nản! Xe y tế bệnh viện đến đón
nữ dược sỹ đầu tiên lên Pleiku. Gặp bác
sỹ giám đốc ông nở nụ cười vui vẻ ý nhị,
có phần thương hại khi thấy cô bé dược
sỹ rùng mình vì khí hậu lạnh buốt xương,
nét mặt tái nhạt, co mình trong chiếc áo
choàng ngoài quá mỏng manh.
Trên đường đất vào tỉnh, dọc hai bên
đường, hoa hướng dương vàng chói sáng
rực giữa bụi mù đất đỏ tung tóe. Khi đến
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 83
bệnh viện ở trung tâm thành phố, đường
được tráng nhựa nên sạch sẽ hơn, hai bên
đường có hàng thông xanh già cao ngất.
Sân bệnh viện rộng lớn. Nhân viên y tế
thành phần là người miền Trung giọng
nói là lạ hơi nặng khó hiểu nghe vui tai
nhưng làm Phương thấy ngượng ngùng
xa cách. May mà có tổ chức của tỉnh nhờ
các học sinh giăng biểu ngữ gần đó “Chúc
mừng nữ dược sỹ đầu tiên đến bệnh viện
toàn khoa Pleiku phục vụ cho đồng bào
Việt và Thượng. Xin thành thật cám ơn
sự có mặt nữ dược sỹ đến giúp nơi nầy”.
Ngày hôm sau, Tỉnh Trưởng người
Thượng dự buỗi lễ họp mặt nhân viên y
tế. Phương được ông phát bằng ban khen
là người nữ dược sỹ can đảm lo cho người
đồng bào Việt và Thượng, không sợ nguy
hiểm ở vùng chiến tranh súng đạn thường
xuyên! Ông phát biểu “ở đây đồng bào
ăn cực khổ, tôi cũng ăn cực khổ” nhưng
giọng nói lên cao thành cứt khô. Phương
lần đầu nghe giọng người Thượng mà
không nhịn được cười, trong lúc anh bác
sỹ giám đốc cũng cười nhưng kín đáo
nghiêm trang. Phương không chịu được
khí hậu lạnh buốt xương, ăn uống không
hợp với khẩu vị, nhớ Saigon da diết, nên
anh giám đốc cũng chiều nàng, cho đi về
phép thường xuyên lâu hơn. Sau khi bị
các nhân viên khác phân bì, cuối cùng
Phương suy nghĩ lại, cảm thông vị trí khó
xử của bác sỹ giám đốc và theo thời gian
nàng tập chịu khó thích nghi với hoàn
cảnh đời sống làm việc ở tỉnh Pleiku.
Phương làm việc chung với phụ tá người
Mỹ da đen lực lưỡng trong kho thuốc
dưới sự kiểm soát của nàng. Ông ấy hay
vào phòng làm việc khi Phương một mình
để bàn chuyện phải làm thường nhật.
Nàng cảm thấy rất sợ, nên nhờ bác sỹ
giám đốc có mặt phiên dịch vì giọng nói
tiếng Mỹ của ông ấy vừa nhanh vừa nuốt
chữ khó hiểu, luôn tiện bảo vệ nàng. Bác
sỹ Mỹ trưởng khu nội thương người cao
lớn, khoảng 1m90, một hôm trong giờ
nghỉ, trong phỏng ăn sáng của bệnh viện
gặp Phương ông rất lịch sự chào hỏi, vừa
cười nói trước sự hiện diện của bác sỹ
giám đốc phiên dịch lại:
- Cô dược sỹ bé nhỏ có khỏe không? Mọi
việc đều tốt? Chắc cô không quen làm
việc sáng sớm như người Mỹ chúng tôi,
nên cô được phép đi làm lúc 8 giờ. Công
việc là kiểm soát phòng thuốc trụ sinh cho
thật tốt, ký các hóa đơn mua thuốc và các
loại hàng quan trọng cho bệnh viện. Tiếp
đến ông ấy báo tin vui, chắc để nâng tinh
thần Phương:
- Cô sắp được về dự khóa học mã số,
luôn tiện gặp lại bạn bè cũ chắc sẽ vui.Tôi
tin sau đó cô sẽ làm việc rất dễ dàng với
mã số của thuốc và từng thứ cần dùng cho
bệnh viện cũng nhanh gọn hơn.
Ngày hôm sau Phương phải cấp tốc về
Sàigòn trên chuyến máy bay quân sự. Bay
đến giữa vùng rừng núi thì máy bay gặp
trục trặc, chỉ còn một động cơ quay. Tất
cả những quân nhân Mỹ và Phương đều
hoảng sợ vì hai cánh nghiêng qua nghiêng
lai, gió mạnh làm chao đảo máy bay. Mọi
người ói mửa. Một anh nha sĩ Mỹ, tình cờ
cùng về phép, lịch sự tới ngồi gần, cầm
một bao nhựa đưa cho Phương ói vào,
tránh bị dơ áo dài. Ông ấy hỏi:
- Are you OK. Cô thấy ra sao, có khỏe
không?
Cuối cùng nhờ ơn trên phù hộ, nhờ viên
phi công có kinh nghiệm điều khiển,
chiếc phi cơ đáp xuống được, dù hơi khó
khăn nhưng rồi cũng an toàn. Mọi người
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 84
thở phào nhẹ nhõm, hoàn hồn vui vẻ tiến
lại cảm ơn rối rít người phi công tài giỏi.
Khi xuống phi trường, anh chàng nha sĩ
Mỹ muốn nhờ Phương giới thiệu thành
phố Saigon trong những ngày nghỉ phép.
Phương đỏ mặt vì sợ đi cùng người nha
sỹ Mỹ, nhưng cười lịch sự từ chối bằng
tiếng Mỹ và không quên cám ơn sự giúp
đỡ vừa qua. Rồi Phương chạy nhanh ra
sân vì thấy có xe bộ y tế đón vào họp
ngay. Ông thầy Mỹ vui vẻ chào các dược
sỹ đi học, ông cố gắng nói tiếng Việt lơ lớ
nghe rất vui tai. Ông chỉ dẫn rỏ ràng và dễ
nhớ khóa học mã số nầy.
Trong tuần có 2 ngày
Phương phải đi làm việc
cùng ban y tế diệt trừ sốt
rét của tỉnh Pleiku. Bác sỹ
giám đốc và bác sỹ Mỹ
đại diện đi vào những
buông làng Thượng có
dân số đông. Con nít, phụ
nữ, người già hay bệnh tật
được khám trước. Dược
sỹ phát thuốc và chỉ dẫn
cách vệ sinh khi ăn uống,
khi uống thuốc phải uống
với nước giếng đun sôi,
phải ngủ trong mùng, vẽ
những viên thuốc hình tròn màu xanh
uống nhiều lần trên hộp thuốc,
chloroquinine màu đỏ chỉ uống mỗi tuần
một viên để ngừa bệnh sốt rét. Lúc đầu
dược sỹ phải có mặt để kiểm soát bắt họ
uống thuốc đúng giờ; khi bệnh phải gặp
bác sỹ khám cho toa, dược sỹ chỉ dẫn cách
uống thuốc bằng tiếng Pháp. Trong đoàn
có chàng thông dịch trẻ tuổi lai, cha là
người Pháp và mẹ là người Thượng, nhân
viên của tòa Tỉnh được biệt phái để phiên
dịch tiếng Pháp ra tiếng Thượng,
Anh chàng nầy thường tới gần tiếp
chuyện và hay chọc ghẹo Phương:
- Người đẹp phải học tiếng Thượng. Cô
nên ra tranh cử dân biểu ở tỉnh Pleiku, tôi
sẽ ủng hộ cô hết mình. Cô làm phước giúp
người dân xứ Thượng, họ mến cô vì quá
tốt lo cho họ, họ tôn cô là “Nữ Hoàng
Pleiku”; trẻ con cũng mến cô, chúng rất
sung sướng, mừng rỡ khi nhận được quà
bánh kẹo lúc cô tới buông làng. Phương
cũng vui vẻ mãn nguyện, nàng thấy tuy
xa nhà hơi buồn, nhưng ít nhất cũng được
làm gì đó để giúp đời. Những người Việt
và Thượng lâm vào hoàn cảnh bị bệnh ở
nơi xa xôi hẻo lánh, không ai đi tới để
giúp đỡ. Khi bác sỹ giám đốc khám bệnh,
phải nhờ dịch ra tiếng Thượng cho họ
hiểu, trình bày tiếng Mỹ với bác sỹ Mỹ để
họ hiểu rỏ tường tận. Sau khi ở buông
làng ra về, nhân viên y tế được nhận
những phần ăn của câu lạc bộ Mỹ rất hậu
hĩnh, hai ba người mới ăn hết một phần
của một quân nhân Mỹ. Những ngày đi
làm việc với ban diệt trừ sốt rét Phương
phải vào làng Thượng rất sớm, vì người
Thượng phải ra đồng làm nông, khó tập
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 85
họp họ lại đông đủ, thêm vào đó họ cũng
sợ uống thuốc lắm!
- Anh đã trình diện Nữ Hoàng Pleiku
chưa?
Lời nói dễ thương đó được lập lại trong
giới quân y. Một buỗi chiều hai anh bác
sỹ quân y lái xe jeep tới nhà Phương sau
giờ làm viêc. Một trong hai anh là bác sỹ
mới lên trình diện tại Quân Y Viện. Anh
bác sỹ khóa trước cười nói đùa:
- Anh đã
trình diện Nữ
Hoàng
Pleiku chưa?
Anh ấy ngạc
nhiên hỏi:
- Ở đâu?
Không khí
trở nên vui
nhộn, mọi
người được
dịp chọc
Phương, sau
đó được chia
phần những quả quít tươi ngon, do một nữ
tiếp viên hàng không Việt Nam gởi cho
một anh bác sỹ hào hoa phong nhã, rất dễ
mến. Anh nầy chia quà biếu cho tất cả
những anh quân y và Phương cũng được
dự phần trong đó.
Người Thượng hay uống rượu cần bằng
ống tre dài cắm vào một bình bằng đất sét
to đầy những vỏ trấu và sâu rượu nổi lềnh
bềnh trên mặt bình. Anh trưởng làng
Thượng đại diện đón tiếp ban y tế, trịnh
trọng mời ăn thịt trâu, uống rượu cần hút
chung cùng một ống tre. Phương trông
thấy đã muốn nhợn cổ họng rồi, các bác
sỹ Mỹ cũng từ chối khéo, bảo phải khám
bệnh nhiều người nên không đủ thời gian.
Thường trong các buổi khám bệnh, các
bệnh nhân nữ và trẻ con được khám
trước. Có một cô gái trẻ tuổi, bộ ngực để
trần no tròn, nhìn người bác sỹ Mỹ, duyên
dáng hỏi bằng tiếng Pháp và bác sỹ giám
đốc nheo mắt cười dịch lại:
-Ông đẹp trai lắm và rất thương người,
ông có muốn lấy vợ người Thượng như
tôi không?
Bác sỹ Mỹ
nhìn cô và
chỉ mỉm
cười.
Trong
những
buông làng,
thường có
những đám
ma chay
được kéo dài
3 ngày, dân
làng Thượng
giết trâu bò,
nhảy múa
rập rình hát hò, ăn uống xung quanh xác
chết rồi hỏa táng sau đó. Các cô gái chưa
chồng thì để ngực trần cho các cậu trai
trong làng chưa vợ ngắm, nhưng chỉ
người đàn bà Thượng mới được quyền
lựa chọn cưới chồng. Con cái được sanh
ra lấy họ mẹ, sính lễ hồi môn là nhiều trâu
bò tùy theo người đàn ông có đẹp và khỏe
mạnh không? Nếu chẳng may mà người
chồng chết trước thì người em trai trong
nhà được chọn thay thế nếu chưa có vợ,
mà không được phép từ chối chê bai. Đàn
bà chủ hộ gia đình phải làm nông, cày cấy
ruộng đất, đàn ông trong nhà làm những
việc nấu nướng, đốn củi, đi săn thú.
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 86
Pleiku có nhiều vườn trà xung quanh biển
hồ. Chủ nhân ngày xưa là người Pháp sau
đó bán lại cho một người Việt gốc Hoa,
nhân viên hành chánh người Việt nói giỏi
tiếng Pháp. Vườn trà Cateka cách xa tỉnh
Pleiku 20 km, có máy phát điện và máy
bơm nước từ biển hồ. Chủ vườn có phi cơ
riêng nhỏ 2 chỗ ngồi được cất cánh ngay
trên sân bay riêng. Lúc còn chủ nhân là
người Pháp, người vợ là môt phụ nữ
Thượng trẻ đẹp nói rành tiếng Pháp, nấu
ăn làm bánh theo công thức Pháp rất ngon
Chúng tôi thường được mời ăn uống tiệc
tùng lịch sự. Để đáp lại, những lao công
vườn trà bị thương hay bệnh tật được dân
y viện Pleiku phụ trách săn sóc. Muỗi
anophène rất nhiều ở đây. Đa số người
Thượng không mặc áo, mùa lạnh thì che
áo tơi bằng rơm kết lại, chỉ che khố ở phía
dưới thôi, nên dễ bị muỗi đốt gây bệnh sốt
rét. Sau nầy chính phủ miền Nam Việt
Nam Cộng Hòa giúp đỡ phát quần áo cho
họ và họ được chăm sóc sức khỏe.
Có một hôm các anh bác sỹ Mỹ được bác
sỹ quân y Việt đề nghị đi vào làng gần
vườn trà, nơi trồng nhiều nhãn và trái cây
để mua. Vừa ngừng xe jeep, thì có một
người đàn bà đi tới vừa khóc và ra dấu:
- Nên về sớm đi vì mấy nẫu ( Việt cộng)
vừa ở đây tối hôm qua lấy gạo và thức ăn
của chúng tôi, nguy hiểm lắm!
Như vậy là người Mỹ đã chứng kiến là
Việt cộng đã ở trà trộn với dân, lấy vũ lực
hăm dọa đàn áp cướp của người dân miền
Nam từ bao nhiêu năm tháng. Các bác sỹ
Mỹ làm việc ở trung tâm y tế rất thương
người, giúp đỡ người Việt ở miền Trung
nghèo khổ. Họ thực hiện nhiều ca giải
phẫu miển phí; bệnh về xương và tim họ
thực hiện chung với bác sỹ Việt; họ giải
phẫu sứt môi đem lại sự tự tin cho các em
bé bị tật nguyền. Khi phải đứng sanh cho
đàn bà Thượng, lúc nào họ cũng dùng
thuốc an thần cho sản phụ uống trước khi
cởi khố ra lau chùi bằng alcool sát trùng,
rồi em bé mới được đỡ ra.
Club Phượng Hoàng của tỉnh được xây là
là trên đồi dốc thấp rất đẹp thơ mộng.
Chung quanh câu lạc bộ có trồng nhiều
thông và những loại hoa nở quanh năm
theo mùa khác nhau. Khí hậu ở đây hơi
giống Đà Lạt nhưng mùa đông gió lạnh
buốt xương , ẩm ướt, hơi se lạnh vào lúc
gần Tết âm lịch. Hai bên đường có những
cây mai hoa vàng anh rực sáng, hàng cây
hoa đào hồng phơn phớt trổ hoa dưới ánh
nắng ban mai êm dịu, nhiều loại hoa lan,
hoa cúc, sắc màu rực rỡ được vun trồng,
tỏa hương thơm thoang thoảng khi đi trên
đường dốc gần đó. Câu Lạc Bộ Phượng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 87
Hoàng là nơi hội họp tổ chức những tiệc
tùng lễ lớn, ăn uống, khiêu vũ. Thành
phần là những gia đình quân nhân cao
cấp. Dinh thự của Trung Tướng Vĩnh
Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn II , cũng ở trên
con đường đó. Các gia đình bác sỹ được
chiếu cố mời trịnh trọng. Sau khi lập gia
đình vợ chồng Phương chỉ thích ăn xong
rồi ra về. Có một hôm Việt cộng bắn hỏa
tiễn, một trái rơi vào quán Phượng Hoàng
vào lúc gần sáng, cũng may không gây
thiệt hại nhân mạng. Sau giờ giới nghiêm
cho người dân ở tỉnh, cảnh sát đi tuần ráo
riết, ai đi đường không có lý do khẩn cấp
thì bị mời vào ty cảnh sát kiểm soát tra
xét. Tỉnh thành rất ngắn, muốn gặp để làm
quen xã giao, thì sáng cứ ăn điểm tâm ở
một tiệm phở hay tiệm mì đùi vịt nổi tiếng
ở đường Phan
bội Châu với
khách tấp nập
ra vào, là gặp
nhiều người
quen ở đấy.
Thời gian qua
nhanh, Uyên
Phương cũng
làm quen với
cuộc sống xa
nhà. Nàng là
người trẻ tuổi
nhất trong
nhóm Y Nha
Dược làm việc
tại đây. Cuối tuần mời nhau đi ăn bún bò,
đặc biệt ở quán ăn có tên là bún bò nhà
Xác vì tiệm nằm gần nhà xác của bệnh
viện. Ngay trong bệnh viện, nhìn ra phía
sau là nhà xác. Phòng của Phương nhìn
qua cửa sổ cũng thấy cửa nhà xác. Thỉnh
thoảng người y công lo quét dọn quên
đóng cửa, gió thổi lắc qua lắc lại, nhìn
tưởng tượng như có người chết sống lại
đi ra. Quán bánh bèo bì cũng gần đó. Lúc
đầu Phương phải năn nỉ một cô nữ hộ sinh
ở cùng phòng luôn luôn phải đóng kín cửa
sổ. Phương hay lái xe màu vàng của ban
y tế diệt trừ sốt rét mà chưa rành de vào
chỗ đậu khó quá, vì lòng đường đi quá
nhỏ nên hay đậu giữa lòng đường. Cảnh
sát quen không phạt mà còn lái vào lề
giùm, Phương có những lúc rảnh, đi dạo
phố ngang qua nhiều cửa hàng, được
người chủ ra đón chào thân tình, mời mua
hàng, rất tin cẩn không phải trả tiến liền,
khi nào có dịp đi ngang qua trả tiền sau.
Đời sống tinh nhỏ gần nhau, xã giao quen
biết thân tình rất nhanh!
Cảnh đẹp biển hồ rất thiên nhiên, mặt
nước trong xanh,
vắng lặng; núi
đồi xa xa huy
hoàng kết thành
một bức tranh
trác tuyệt. Đến
cuối tuần thì rộn
rịp người dân ở
đây gặp nhau đi
dạo mát hay hội
họp gia đình, ăn
uống trong
những nhà sàn
cây che mưa
nắng, kiến trúc
miền thượng du,
giữa trời xanh mây trắng, không khí trong
lành. Các anh lính trẻ xa nhà, hay ra bờ
biển hồ, kiếm chỗ hẻo lánh, nhìn trộm các
cô gái Thượng tắm suối cười khúc khích.
Sau hai năm mãn nhiệm kỳ, Uyên Phương
mở dược phòng đầu tiên lấy bảng hiệu
“Ngọc Diệp” trên đường Phan Bội Châu,
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 88
đường chính của phố tại tỉnh Pleiku, vào
tháng 7 năm 1968. Xéo qua trước cửa
dược phòng, một cây phượng vĩ gốc rất to
đã hiện hữu kiêu kỳ từ mấy chục năm.
Cành cây tàn rộng lớn đầy hoa nở đỏ
thắm, màu lá xanh mướt rậm rạp quanh
năm choàng ngang qua bên kia đường, tỏa
bóng râm và làm cho con đường trở nên
thơ mộng, thanh mát. Các anh bác sỹ
quân y sau giờ làm việc, đi ra phố mua
thức ăn bánh trái, thường tập họp bên kia
đường, nhìn qua dược phòng của Phương.
Có hôm họ vào thật đông chào hỏi cười
nói vui vẻ. Qua nhiều lần gặp và tìm hiểu
với một anh bác sỹ quân y hiền lành, vui
tánh, Phương và anh ấy thấy tâm đầu ý
hợp, nên sau nhiều tháng cả hai ra mắt hai
bên gia đình và được cha mẹ cả đôi bên
vui vẻ chấp thuận. Thiệp hồng thành hôn
được Phương gởi về Bộ Y Tế tháng 11
năm 1968.
Sau đám cưới, chồng Phương mở phòng
mạch ở tầng dưới, gia đình ở tầng trên của
một căn nhà thuê lại của một ông sỹ quan
gốc người tỉnh Pleiku. Con đường nầy rất
ngắn và nhỏ, nhưng những cửa hàng lớn
và sang trọng đều mở tại đây. Mỗi ngày
bài hát “còn chút gì để nhớ, để thương,
em Pleiku má đỏ môi hồng ,may mà có em
đời còn dễ thương” được phát thanh vang
khắp cả khu phố. Bài thơ do một người
lính quân đoàn 2 viết ra để lại, được nhạc
sĩ Phạm Duy phổ nhạc theo nhịp điệu
nhạc miền thượng du. Khách du lịch khi
đến Pleiku rất thích đi trên con đường
ngắn thơ mộng nầy để mua sắm đồ thủ
công của người Thượng dệt với nhiều
màu sắc chói sáng vui mắt mà rẻ tiền. Khi
đói bụng, được vào tiệm nổi tiếng ngon
nhất để thưởng thức tô mì đùi vịt đặc biệt
ở đây.
Phương là dược sỹ chủ nhân trẻ, các cô
phụ tá bán hàng cũng trẻ đẹp. Dược
phòng rất được nhiều bệnh nhân tín
nhiệm nên đông khách. Phương chỉ dẫn
rành mạch tận tình, giới thiệu giúp cho
người bệnh vào bệnh viện gấp khi cấp
cứu. Uyên Phương sống hạnh phúc cùng
gia đình, chồng nàng là bác sỹ giải phẫu
giúp cho Trung Tâm Y Tế Pleiku và Bệnh
Xá Quân đoàn II. Đến cuối năm 1973
chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sôi
động mạnh, Phương phải từ giã Pleiku về
sống với anh chị ở Saigon. Nàng ra đi đầy
thương nhớ và lo âu cho chồng nàng, phải
còn ở lại nơi này để tiếp tục phục vụ cho
bệnh nhân.
Khi bộ đội miền Bắc cầm súng tiến quân
vào tỉnh thành miền Nam, thì hàng lớp
người dân bỏ nhà cửa chạy toán loạn ra
đường đầy sợ hãi, dọc đường xô đẩy nhau
mất lạc người thân, chết chóc, đói khát
không biết đi về đâu? Bom và súng đạn
tiếp tục nổ vang dội khắp vùng Cao
nguyên Trung phần và các tỉnh thành
miền Nam Việt Nam. Người quân nhân
Việt Nam Cộng Hòa phải giải tán hàng
ngũ trong nỗi uất ức nghẹn ngào, chua xót
tang thương.
Chồng Phương cũng thập tử nhất sanh,
khó khăn vượt qua bao nhiêu đoạn đường
đầy sóng gió, mới về được đoàn tụ với
gia đình trước ngày 28/4/1975. Miền Bắc
xâm chiếm toàn lãnh thổ quê hương đất
nước gieo chế độ cộng sản toàn trị vào
ngày 30/4/1975!
Thy Phượng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Thy Phượng 89
(Viết cho Hạnh & Tuyết)
Sáng nay có một linh hồn héo
Một trái tim khô cạn máu đào
Một gánh vô thường đành bỏ lại
Một lần chân bước sẽ về đâu?
Sáng nay có kẻ vừa đi mất
Có hẹn gì đâu với nắng mưa
Người đi, đi mãi vào thiên cổ
Bỏ lại bao người thương mến xưa
Sáng nay người đã ra đi mãi
Vỉnh viễn rời xa cát bụi này
Người đã nói gì câu vĩnh biệt
Nghìn trùng đành đoạn áo mơ phai
Sáng nay có kẻ vừa đi mất
Bỏ lại người thương quá sững sờ
Người đi hoa cỏ buồn ly biệt
Một bóng trăng sầu đứng ngẩn ngơ.
Sương Mai
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 90
Sáng nay thức dậy sương mù xuống
Một lớp mong manh tráng ánh mù
Ảo ảo, mờ mờ như cõi mộng
Lòng tôi mờ ảo giữa màn thu
Cây đứng bên đường vàng lá đổ
Mùa thu đến chậm ở nơi này
Trời thu man mác sầu xa vắng
Chim chóc buồn hiu nỗi riêng tây
Sương làm tôi nhớ ngày xưa ấy
Những sáng đầy sương ngập lối đi
Hốt nhẹ làn sương, sương biến mất
Như người đi biệt chẳng quay về
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 91
Ai cũng một lần riêng ích kỷ
Một lần bội bạc sống cho mình
Mà đời ngắn ngủi làm sao đợi?
Sám hối làm sao cuộc tử sinh?
Nhìn sương tôi biết đời mờ ảo
Rồi ánh sương kia sẽ phải tan
Thì thôi xin lỗi mùa thu cũ
Xin lỗi, lòng tôi rất bạt ngàn!
Sương Mai
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 92
Có không anh khi vắng em anh thiếu
Một chút gì bé nhỏ rất dễ thương
Như nồi cơm vừa chín tới bình thường
Như tách trà tỏa mùi thơm rất nhẹ
Có không anh khi vắng em anh sẽ
Nhớ em nhiều lòng quạnh quẽ đìu hiu
Sáng trưa chiều anh nhớ biết bao nhiêu
Như em vậy cả hai cùng thương nhớ
Có không anh khi vắng em anh sợ
Sợ cái buồn sẽ chiếm hữu long lanh
Cái bâng khuâng anh dọn dẹp không
thành
Nên nó cứ theo anh hoài theo mãi …
Có không anh khi vắng em anh ngại
Bước ra đường vì em không có cùng đi
Trong lẻ loi anh chán lắm đây nì
Những ngày lễ sao vô duyên đến vậy?
Có không anh khi vắng em anh thấy
Những niềm vui sao đi biệt phương nào
Anh hỏi mình không biết tại làm sao
Lòng trống rỗng, đất trời sao buồn thế?
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Sương Mai 93
Nhớ rằng tĩnh lặng giữ bí mật
Nên tiếng êm dịu nhất: lặng yên
Là ngôn ngữ của tâm linh
Có người nghe trong lặng im nguyện cầu
Có kẻ hát như hầu không tiếng
Khi mãi mê công chuyện thường ngày
Kẻ khác tìm bí mật nầy
Trong trầm mặc về nhiệm mầu trần gian
Khi chế ngự hoàn toàn kinh nghiệm
Tiếng ồn thế giới chuyển lặng im
Xao lãng, lỗi lầm, nhận chìm
Tất cả cuộc sống bỗng nhiên thâm trầm
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 94
Đi vào cõi trầm ngâm suy tưởng
Trong đó ta chiêm ngưỡng hóa công
Chiêm nghiệm trong tận đáy lòng
Mọi sự đều được phước ơn từ trời
Tranh đấu, khổ, âu lo đều biến
Mà chỉ còn kinh nghiệm trường tồn
Bay theo chim, hít hoa thơm
Tìm sự tốt đẹp, khôn ngoan vì rằng
Khôn ngoan đi theo chân tốt đẹp
Mà tốt đẹp có hết mọi nơi
Ta không tìm, nó đón mời
Hành sự như thế, để rồi đổi thay
Mọi sự đều vào ngay trầm mặc
Hóa của dâng chân thật linh hồn
Hồn dâng cho đấng chí tôn
Khi rửa chén, nước trong bồn ấm sao
Thích thú xoa đôi tay làm việc.
Soạn thức ăn, nấu bếp biết ơn
Ưu ái vũ trụ sẵn lòng
Đem cho lương thực ước mong mỗi ngày
Cho người thân đủ đầy no ấm
Tình yêu được gửi gắm kèm theo
Khi thở, thở sâu, chậm, đều
Hơi thở êm dịu, ngọt ngào đời dâng
Đầy thương yêu, lực năng, sinh thái
Ta đang thở ưu ái hóa công.
Mọi sinh hoạt đều được lồng
Trong suy tưởng, với tấm lòng nghiêm minh
Chứ không phải vô tình, chễnh mảng
Hiệp làm một với đấng chí tôn
Trú ẩn được an bình luôn
Tim tôi người trú, tôi trong tim người
Chúng ta nay không rời, là một
Như ngày qua, mai mốt keo sơn
Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 95
Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh
Càng quan tâm hạnh phúc người khác
Chúng ta càng an lạc, sướng vui
Nuôi dưỡng giao tiếp với người
Thân thiết ấm áp thì đời của ta
Thấy hạnh phúc, an hòa, thoải mái.
Đó là đích cao cả, uyên nguyên
Đem lại thành công nhãn tiền
Hạnh phúc đâu phải tự nhiên trong đời
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 96
Mà đến từ nguyên do hành động
Thấu hiểu người và sống từ tâm
Mang lại hạnh phúc bình an
Ai cũng tha thiết truy tầm cho ra
Nếu tình yêu trong ta đã mất
Thấy mọi người chỉ rặt là thù
Thì dù kiến thức tới đâu
Tiện nghi vật chất mức nào, cũng
không
Có hạnh phúc, chỉ còn đau khổ.
Bản chất con người có tâm linh
Vật chất chỉ là ngoại hình
Thiếu tâm linh thì an bình mất đi
Bạn mới đến thế thay bạn cũ
Như tháng ngày tuần tự vụt qua
Làm sao ý nghĩa chan hòa
Trong tình bạn, nghĩa thiết tha tháng
ngày
Khi bất đồng với ai thân thiết
Đem chuyện cũ chì chiết thì đừng
Chỉ nói hiện tại hòa đồng
Bầu không khí đượm yêu thương trong
nhà
Là nền tảng đời ta xây dựng
Sống tử tế, phẩm hạnh rất cần
Về già hồi tưởng dần dần
Thưởng thức lần nữa công trình ngày
xưa
Tránh tranh chấp tuy là nho nhỏ
Làm tổn thương gắn bó thâm tình
Theo luật 3 T đinh ninh
Tôn trọng người khác, Tự tin thành
tâm
Chịu Trách nhiệm việc làm, không
chối
Tin khổ đau do ngu muội sinh ra
Gây đau khổ cho người ta
Để tạo hạnh phúc, chỉ là hoài công
Hạnh phúc thật sự trong an lạc
Tạo ra bởi tâm thức vị tha
Thương yêu, từ tâm, hài hòa
Xóa bỏ ích kỷ, lánh xa ngu đần
Không tham lam, mở lòng rộng rãi
Khánh Giao
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Khánh Giao - Phùng Văn Hạnh 97
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 98
T
ôi giật mình choàng tỉnh khi chiếc
máy bay nhồi lên nhồi xuống để từ từ
hạ cánh, sau một chuyến bay dài từ phi
trường Paris. Mẹ tôi ngồi bên nhìn qua
khung cửa hẹp của phi cơ, hỏi:
- Sắp xuống Hà Nội rồi hả con?
Tiếng Mẹ hỏi nghe như đang tìm về một
cái gì xa xôi lắm! Tôi không trả lời, ghé
nhìn chung với Mẹ ra ngoài khung cửa,
có thấy gì đâu ngoài những áng mây bàng
bạc trong nền trời còn tối đen của buổi
bình minh chỉ mới phơn phớt vài ánh
hồng le lói ở chân trời. Nhưng với Mẹ thì
là cả một trời kỷ niệm xa xưa mà Mẹ đang
chờ gặp lại sau hơn nửa thế kỷ xa quê, Hà
Nội của những mùa thu cũ “với áo mơ
phai dệt lá vàng”, những cô em gái “ngập
ngừng trong chiếc áo nhung” “thướt tha
bên hồ liễu thưa”.
Còn với tôi, Hà Nội! Cái âm thanh êm
đềm, gần gũi nhưng cũng thật xa lạ. Chỉ
là một địa danh trên tờ giấy khai sanh của
tôi, mà tôi chưa bao giờ được đặt chân trở
lại. Kỷ niệm duy nhất của Hà Nội đã theo
tôi vào đến Sàigòn là chiếc áo manteau
bằng dạ màu xám nhạt, có cổ bẻ ra hình
lá sen, và bên dưới áo từ cái eo trở xuống
hơi xòe ra như áo đầm, mà Bố tôi mua từ
Pháp về lúc tôi mới oe oe, “mua sẵn để
sau này đến tuổi đi học con sẽ mặc, gió
mùa thu Hà Nội se lạnh lắm”. Chưa được
mặc thì đến lúc di cư, nên Mẹ tôi đã mang
theo chiếc áo đem vào Nam. Chiếc áo
khoác ấy đã là cả một trời kỷ niệm ấu thơ
của tôi sau này mỗi lần theo Bố Mẹ lên
Đà Lạt, lon ton chạy trên những con
đường sớm thoảng mùi thông ngan ngát
hương thơm, hai má đỏ hồng, đút tay
trong hai túi áo ấm đến nóng cả người
trong khi Mẹ thì luôn miệng than lạnh. Ở
Sàigòn nóng, ít khi mặc đến chiếc áo
manteau ấy nên Mẹ thường để hai cục
băng phiến trong hai túi áo để dán khỏi
ăn. Mỗi lần mặc đến áo, tôi luôn luôn tìm
thấy một món quà trong túi. Tôi cho là có
bà Tiên nào đó đã ban cho tôi. Cho nên
chiếc áo ấy đã là cả một thế giới huyền
thoại, thần tiên đối với tôi suốt thời thơ
ấu. Đến lúc tôi lớn hơn, áo chật Mẹ vẫn
không vất đi, giữ lại cho các em tôi mặc.
Mẹ nói: “áo mang từ Hà Nội vào”. Làm
như với Mẹ, Hà Nội là một cái gì thân
thương vô cùng, không thể nào xóa nhòa
trong tâm khảm.
Sau này tôi mới khám phá ra “bà Tiên” đã
để những món quà nho nhỏ ấy vào túi áo
của tôi là chị Loan, người chị họ đã được
bà ngoại tôi giao cho Mẹ để đi theo vào
Nam. Nhớ làm sao đôi má hây hây hồng
trên làn da trắng nõn mịn màng của chị
mỗi lần tôi khoe chị những viên kẹo xinh
xinh hay chiếc ô tô chỉ bé bằng nửa bàn
tay tìm được trong túi áo. Mà bàn tay của
tôi, cô bé con chưa được vào mẫu giáo
dạo ấy thì có to được là bao? Thế sao mà
niềm vui thì lại vô bờ bến. Chị biết tỏng
ra rồi nhưng lần nào cũng chỉ cười và bảo
“em cứ học ngoan thì bà Tiên sẽ lại cho
quà!”. Giờ, Mẹ tôi sắp được đặt chân
xuống quê hương của Mẹ và của chị,
nhưng ngày về đã không còn chị như lúc
ngày đi. Tự nhiên, tôi thấy có một cái gì
cay cay trong mắt, quặn quặn trong lòng,
khi nghe Mẹ nói nho nhỏ:
- Giá còn con Loan...
Tiếng cô tiếp viên vang lên trong loa
phóng thanh:
- Phi cơ đang sửa soạn đáp xuống phi
trường Nội Bài, Hà Nội. Bây giờ là 5 giờ
10 phút sáng, ngày....
Trái với các cô tiếp viên hàng không ở
Sàigòn trong áo dài màu xanh da trời, mà
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 99
ngày còn nhỏ chúng tôi gọi là màu xanh
Air Việt Nam, thì các cô tiếp viên hàng
không ở Hà Nội lại mặc áo dài màu đỏ gụ,
cổ và tay viền vải kim tuyến vàng, trông
đẹp và lịch sự nhưng tôi thấy hơi “già” so
với cái màu xanh mát rượi của các cô tiếp
viên trong Sàigòn. Các cô đi qua đi lại để
kiểm soát, nhắc nhở hành khách cài giây
an toàn trong khi phi cơ sửa soạn đáp
xuống.
Cả phi cơ nhao nhao lên, người thì lo cài
lại giây an toàn, người thì chúi mũi nhìn
qua cửa sổ, bên ngoài đã loáng thoáng vài
ánh nắng yếu ớt xuyên qua những từng
mây. Tôi nôn nao, ngồi thẳng, vươn vai
cho đỡ mỏi.
Sau hơn ba mươi năm, nơi đầu tiên tôi đặt
chân trở lại trên mảnh đất quê hương là
phi trường Nội Bài, cách trung tâm thủ đô
Hà Nội chừng 30 cây số. Cảm giác đầu
tiên của tôi là phi trường này cũng không
tệ so với những phi trường tại hải ngoại
mà tôi đã được đặt chân đến. Dù sao nơi
đây cũng là một sân bay quốc tế, là cửa
ngõ giao thông quan trọng của miền Bắc
Việt Nam, lớn vào hàng thứ ba trên toàn
quốc, cho nên họ cũng ráng giữ bộ mặt
khang trang. Nhưng sự khác biệt đầu tiên
tôi cảm nhận được ngay so với các phi
trường tại hải ngoại là khi bước vào
phòng vệ sinh! Những gì không đẹp thì
không nên đề cập đến ở đây. Tôi đưa Mẹ
vào, nhanh chóng làm công việc vệ sinh
cần thiết buổi sáng, chải tóc tai gọn ghẽ,
thay chiếc áo pull thẳng thắn, rồi mau
mau trở ra nơi tiếp nhận hành lý. Mẹ tôi
không ngớt nhìn quanh quất như thể đang
muốn tìm lại hình ảnh hồ Gươm, đền
Quan Thánh trong khung cảnh xa lạ này:
- Xuống đến Hà Nội rồi hả con?
Tôi cười trả lời Mẹ:
- Chưa đâu mẹ, còn cách 30 cây số cơ mà.
Tí nữa có xe đến đón, mình sẽ được đi qua
Hà Nội, rồi về thẳng Sơn Tây.
Nửa giờ sau, chúng tôi mới ra được khỏi
khu hành lý và giấy tờ lỉnh kỉnh. Hai vợ
chồng cô em chồng và hai đứa con của cô
đang đứng ngóng cổ bên ngoài phòng đợi,
chăm chăm nhìn vào, trên tay người nào
cũng cầm một bó hoa tươi to tướng, bó
của tôi thì toàn hoa hồng thật thắm, chắc
là đã được mách qua thư rằng tôi thích
trồng hoa hồng ở vườn nhà. Tôi lạ, chẳng
quen ai, nhưng cũng cười xã giao:
- Các cô chú ra đón là vui rồi, mua hoa gì
mà nhiều thế, tốn kém chết.
Tôi tưởng tượng ở Canada, mỗi bó hoa
này thì phải núi của! Nếu cứ tính một
chục hoa hồng đã 29.95$ rồi, mà đây thì
không biết đến bao nhiêu chục đóa!
Nhưng cô em chồng cười dễ dãi:
- Hoa ở đây bán rẻ lắm chị ạ, có đắt như
bên í đâu.
Mà đúng thật, trên con đường bụi mù từ
phi trường tiến về phía Hà Nội vào lúc
trời vừa hừng sáng, xe cộ đã chen chúc
nhau, tiếng còi xe, tiếng cười nói của
những người ra khỏi nhà đi làm sớm để
tránh giờ kẹt xe, tôi nhìn thấy không biết
bao nhiêu là các bà chở hoa ra chợ bán,
sau xe là cả một “vườn hoa”, che cả chiếc
lưng cong cong trên chiếc xe đạp mong
manh. Hoa được chất vào những chiếc
thúng to (mà tôi cũng có nhìn thấy cái
thúng đâu), cột chắc vào yên sau, một
chiếc trên yên, hai chiếc tòn ten thòng
xuống hai bên, đằng trước ghi-đông cũng
một chiếc giỏ nan với vô số hoa tươi hé
cười chào đón ánh nắng ban mai. Tôi
tưởng tượng chỉ cần lạc tay lái, hay xe vấp
vào hòn đá hay cục đất thì chắc chiếc xe
sẽ nghiêng lệch và té chết thẳng cẳng vì
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 100
xe sau dồn xe trước! Nhưng cô em chồng
tôi cười giải thích:
- Không đâu. Trông thế nhưng người ở
đây họ quen rồi. Đạp xe giỏi lắm. Chúng
em ngày xưa thì cũng thế, có khi chiếc xe
đạp cỏn con mà phải đèo đến 3 đứa con đi
học, rồi cũng
quen thôi, có
chết ai đâu, chứ
dạo ấy lấy đâu
ra ô tô mà đi
như thế này.
Rồi cô chỉ tay ra
ngoài:
- Như cái bà kia
kìa, đấy, cũng
đèo cả con trên
xe, có sao đâu.
Tôi theo hướng
tay cô chỉ, nhìn
thằng bé chừng tám chín tuổi, ngồi sau xe
đạp của mẹ nó, hai mẹ con ngồi đâu lưng
lại với nhau, thằng bé ngồi quay mặt ra
phía sau, hai chân nó thòng xuống gần sát
đất, chiếc túi xách đi học đeo ngược phía
trước ngực, hai tay thì thòng sang hai bên
nắm chặt hai quai của chiếc thùng nhôm
chất đầy hoa chen chúc vươn cao hơn cả
đầu nó. Tức là hai tay của nó không cần
vịn vào đâu cả. Thấy chúng tôi nhìn, nó
còn cười toe toét. Tôi lắc đầu:
- Ở Canada mà chở con kiểu này thì chắc
chắn mẹ nó đã bị cảnh sát “úm” từ khuya
rồi.
Hai bên đường, hàng hàng lớp lớp nhân
công trong những chiếc áo len hoặc áo dạ
ấm, phu la kéo cao che cả hai bên tai, chen
chúc nhau trên những chiếc xe gắn máy,
giờ này cũng không chạy nhanh hơn xe
đạp là bao! Tôi thắc mắc:
- Sao ở đây thiên hạ đi làm sớm thế? Hãy
còn bảnh mắt...
Cô em chồng giải thích:
- Đa số là những người làm cho các công
xưởng ngoại quốc chị ạ. Nhìn cách ăn
mặc của họ thì biết. Họ không thể đến trễ
giờ làm, bị đuổi
ngay, nên phải
đi thật sớm để
tránh giờ kẹt xe.
Đến nơi, nếu
xưởng chưa mở
cửa thì họ ngồi
đợi ở các hàng
quán bên
đường, uống cà
phê chờ đến giờ
vào làm. Ở đây
kẹt xe triền
miên.
Mà không kẹt xe sao được. Xa lộ đang
được mở rộng khắp nơi, hai bên đếm
không biết là bao nhiêu chiếc xe cần trục
suốt dọc đường đi. Những chiếc xe hủ lô
lăn qua lăn lại, ủi ủi cán cán, bụi bay lên
mù trời đất, cho nên phần đường còn lại
dành cho xe chạy chỉ còn bé tí. Trái với ở
nước ngoài, làm đường sửa đường thì chỉ
làm từng đoạn, chặn lại chỗ đó thôi, xong
rồi thì lại sang đoạn khác, đây thì làm một
dọc luôn, hình như họ vận dụng hết cả xe
hủ lô xe cần trục về để triển lãm hết ở suốt
dọc đường này.
Tôi băn khoăn:
- Làm thế này thì bao giờ mới xong? Cứ
kẹt cứng thế này à?
- Úi giời! Cứ quanh năm như thế chị ạ.
Hết chỗ này thì lại đến đoạn khác.
Rồi cô đổi đề tài:
- Chắc chị thì không biết rồi, chứ anh thì
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 101
hẳn còn nhớ, quãng đường này ngày xưa
nhà cửa ruộng đồng thưa thớt, nay anh
nhìn kìa, nhà máy mọc lên tua tủa.
Nhìn những bảng hiệu nhà máy với những
cái tên ngoại quốc quen thuộc, chẳng ai
nghĩ rằng mình đang ở Việt Nam! Những
ống khói nhả khói mịt mù hòa với bụi
đường vươn
lên bầu trời
xam xám của
buổi sớm mai.
Người đi
đường ai nấy
cũng đeo khẩu
trang, chẳng
nhìn thấy mặt,
cứ y như ở xứ
Pakistan! Các
em tôi nó gọi
là “trùm
khủng bố”.
Người xưa nói: cười người hôm trước
hôm sau người cười, có sai đâu. Cười
người ta cho lắm vào, bây giờ cả thế giới
thành “trùm khủng bố”, lại còn chế ra đủ
kiểu đủ màu.
Đường có dài đâu mà chiếc xe thì cứ
nhích từng thước một, tiếng còi xe inh ỏi,
mạnh ai nấy bóp còi, điếc cả tai. Vào đến
gần Hà Nội thì trời đã ưng ửng sáng. Phố
phường tấp nập bừng lên sức sống. Tôi
yên lặng đưa mắt qua kính xe, nhìn xuống
dòng sông bên dưới nước lờ lờ chảy. Tôi
không còn sức hỏi chuyện nữa, đầu nhức
inh lên vì tiếng còi xe suốt dọc đường.
Đứa cháu chồng vừa lái xe vừa quay đầu
lại phía sau bảo:
- Lẽ ra, cháu muốn đưa Bà và hai bác vào
Hà Nội xơi phở sớm rồi mới về Sơn.
Nhưng giờ này mà vào thì không tài nào
trở ra được nữa bác ạ, giờ đi làm mà lị.
Mà ở trên Sơn thì các cô chú cùng các bác
đã về đủ từ chiều qua rồi để chờ đón ngày
trọng đại. Cho nên, chúng ta về thẳng
thôi.
Cái ngày trọng đại mà thằng cháu nói đến
là cái ngày hôm nay, là ngày mà sau hơn
30 năm, cả nhà đang chờ xem cái con khỉ
miền Nam
“Bắc kỳ mất
gốc” là tôi,
xem mặt
ngang mũi dọc
nó trông như
thế nào?
Mẹ tôi nghe
xong có chiều
thất vọng,
nhưng tôi tán
thành ngay:
- Phải, ta về
trước cất hành
lý, rồi mấy hôm nữa đàng nào cũng đi Hà
Nội cơ mà, không vội. Ra đến Hà Nội,
con sẽ đưa Mẹ đến ngay đằng nhà bác
Kim.
Nói cho ngay, tôi cũng chẳng có chút hoài
niệm nào về Hà Nội nên có đến trước hay
đến sau mấy ngày thì cũng không khác
biệt gì. Mẹ thì khác, nhưng Mẹ cũng gật
đầu. Đường đi từ Hà Nội đến Sơn Tây tuy
xe cộ đỡ chen chúc hơn, nhưng thỉnh
thoảng lại phải chen lấn với... bò. Xứ tự
do, trâu bò cũng thong thả qua đường
chen với xe cộ một cách vô tư. Chẳng ai
phạt! Hai bên đường cũng đang xây cất,
cũng lại cảnh xe cần trục với hủ lô. Tôi
chán quá dựa lưng vào thành ghế ngủ bù
lại giấc ngủ chập chờn đêm qua trên phi
cơ, trong lúc mọi người kể lể huyên
thuyên chuyện từ đời min nớp xăng cà cộ.
Đến lúc xe ngừng lại trước nhà, tiếng
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 102
người nhà huyên náo túa ra mừng đón, lại
hoa nữa. Tay tôi đầy hoa là hoa, và cái
màn chụp hình trước cửa nhà cũng kéo
dài đến nửa giờ, mà tôi thì chỉ mong vô
nhà cho rồi. Hai bên đường, hàng xóm túa
ra tò mò nhìn, chỉ trỏ.
Gia chủ, vợ chồng chú Lộc, tíu tít sai con
đỡ mấy va li nặng chĩu lên lầu. Căn nhà
ba tầng khang trang, với sân thượng ở trên
cùng dùng làm chỗ phơi quần áo và trồng
hoa lan. Nghe nói nhà vừa được đập ra
xây lại toàn diện hồi năm ngoái, nên còn
thơm mùi mới, kiến trúc không khác gì
nhà ở nước ngoài, với căn bếp thật rộng,
tủ bếp bằng gỗ gụ nâu đen trên nền tường
xám nhạt. Các phòng thiết kế đầy đủ
robinet, nhưng phải cái tội là chỉ mới sau
một năm, robinet nào cũng rỉ nước tong
tỏng cả ngày. Nhà cũng có vòi nước nóng,
nước lạnh để tắm,
nhưng cũng phải mỗi
cái tội là trước khi tắm
thì mới vặn nước nóng
nên phải ngồi chờ
chừng nửa giờ nước
mới đủ nóng để tắm.
Một cái ngộ nữa là
phòng tắm không có
bồn tắm, chỉ tắm bằng
vòi sen, nhưng lại
không có cửa kính quây
lại gì cả, cứ tắm xong
thì tất cả cái sàn nhà tắm
và chung quanh đều ướt
mem. Thật là lạ. Cái gì
họ cũng bắt chước nước
ngoài được, mà chỉ có
chuyện này thì không.
Phòng tắm trên lầu thì
có bồn tắm, nhưng dùng làm chỗ để chậu
đựng quần áo, chổi quét nhà…
Ở đây không ai xài máy sấy quần áo,
nhưng máy giặt thì có. Nhưng trước khi
cho quần áo vào máy giặt thì tôi thấy cô
cháu dâu ngồi vò xà phòng rát cả tay, xả
nước, xong mới cho vào máy, tôi lấy làm
lạ thì cả nhà giải thích rằng đó là cái “máy
sấy”, cho quần áo vào nó vắt khô queo,
đem lên sân thượng phơi một buổi là khô
ngay. Lạ thật, tôi nhìn mãi, đọc cả chữ
trên máy thì rõ ràng là cái máy giặt, nhưng
cả nhà thì cứ gọi nó là cái máy sấy khô,
tôi cũng không cãi làm gì.
Nói chuyện mới biết là căn nhà cũ của
ông bà nội các cháu xưa kia xẻ năm xẻ
bảy ra bán để ăn dần, kể cả chiếc quạt máy
cũ, tài sản cuối cùng còn lại cũng phải bán
đi để có tiền cho các cô chú ăn học. Mấy
năm nay, cậu con trai đầu của vợ chồng
chú Lộc được vào Nam nắm giữ vài
chương trình xây cầu
cống, rồi từ đấy phất lên
đem tiền về mua lại các
phần nhà trước kia đã
bán và xây lại toàn diện
căn nhà với bê tông, cốt
sắt suốt 3 tầng. Sân
đàng sau lát gạch suốt ra
đến chuồng gà ráp ranh
với nhà hàng xóm, chỉ
trừ chỗ dưới các gốc cây
thì không lát gạch mà
trải sỏi trắng thành một
vòng tròn chung quanh
gốc cây. Giữa sân là
một cây hoa ngọc lan,
chú Lộc khoe là cậu con
trai lấy cả chiếc xe vận
tải dài thoòng của công
trình xây cất, thuê thợ
bứng cái cây cổ thụ này lên xe rồi chở từ
Nam ra Bắc trồng sau nhà. Đúng là dân
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 103
chơi! Chưa kể còn thêm chiếc xe Camry
tặng cho bố mẹ để nằm chình ình ngay
trong phòng khách, vì nhà ngay ngoài mặt
đường, lấy đâu ra đất xây garage. Nhưng
mấy hôm nhà có khách, chiếc xe được
tạm thời di tản sang một sân trống cách
nhà không xa, để lấy phòng tiếp khách.
Tôi nghe chuyện, miệng cười nhưng nghĩ
bụng “chỉ một chức kỹ sư cầu cống nhỏ
nhoi, mà sau mấy năm đã như thế này thì
cấp lớn hơn còn đến thế nào?”. Thế mà
làng xóm, công an chẳng ai thắc mắc gì
cả, coi như đấy là chuyện đương nhiên.
Anh nào vào Nam thì khi trở ra cũng được
như thế! Vợ chồng chú Lộc hãnh diện
lắm:
- Trong thời bao cấp, gạo mục trộn khoai,
trước khi thổi thành cơm thì phải ngâm
gạo vào nước cho mọt nổi lên rồi vớt đi,
thì chúng em chưa bao giờ nghĩ có được
như ngày hôm nay.
Các cô em chồng lăng xăng bày biện bếp
núc. Cô Hòa và cô Thuận khoe:
- Chúng em mất cả mấy hôm gói bánh
chưng từ trước để thết Bà và anh chị.
Trên bàn mấy con gà luộc còn cả đầu lẫn
mỏ bên cạnh chồng bánh chưng vuông
vức. Tôi nhìn mà ngao ngán. Tội nghiệp,
dường như người miền Bắc, đãi khách thì
không thể thiếu con gà và giò chả, là
những thứ mà tôi nhìn đã thấy ngán rồi.
Cô Thuận bưng mấy con gà ra sân sau, để
chiếc thớt ngay trên nền gạch rồi ngồi
xuống chiếc ghế con thấp, chặt thịt gà bầy
lên đĩa trông vàng ươm đẹp mắt, rắc thêm
mấy lát lá chanh thái mỏng dính.
Một điểm đặc biệt là trong gia đình tôi ít
tuổi nhất nhưng vai vế lại cao nhất nên
các cô các chú vẫn cứ gọi tôi là “chị”, và
xưng em, cho thấy vấn đề lễ giáo trong
gia đình vẫn còn được coi trọng lắm, làm
tôi thật là ngại. Nhìn cô Cúc, cô em chồng
lớn tuổi nhất, lưng đã còng xuống sau bao
năm ngồi bên chiếc máy may cũ rích,
đang lui cui bày bàn ăn, tôi dành lấy, bảo:
- Chị Cúc để em làm.
thì cô nạt ngay:
- Xưng hô như thế không được, dù chị bao
nhiêu tuổi thì chị vẫn là chị của em và của
hết cả nhà. Chị không được làm, để em.
Cô đẩy tôi ra, tự tay dành lấy, lom khom
đặt đũa bát lên bàn, tôi thật thương, vì
trước đó tôi đã được nhồi sọ từ ở nhà rằng
cô Cúc là con gái lớn nhất nên thiệt thòi
hơn cả, không được học hành nhiều vì
phải đi làm lụng may vá từ lúc còn ít tuổi
để phụ đắp vào chi phí của gia đình cho
cả đám em đi học, sau này lũ em đều tốt
nghiệp ở Liên Sô, Tiệp Khắc cả, trong khi
cô vẫn chỉ cặm cụi ngồi thêu may qua
ngày. Cho nên kỳ này, ngoài quà cáp cho
cô Cúc đồng đều như tất cả các người
khác, tôi kín đáo dành cho cô chiếc vòng
mà trong gia đình tôi chẳng ai chịu đeo
cả, chiếc vòng có lẽ nặng về trị giá nhưng
lại nhẹ về nghệ thuật vì nó quê một cục!
Tôi cũng chẳng biết nó xuất hiện trong gia
đình tôi từ dịp nào? Những miếng cẩm
thạch lâu năm từ lúc còn màu xanh bí bây
giờ lên nước trở thành xanh lè thật bóng,
có đính hột xoàn nhỏ chung quanh, sáng
lấp lánh dưới ánh đèn, tất cả được gắn trên
chiếc khung vòng bằng vàng 24 ca ra nên
trông cứ vàng khè! Thế nhưng khi nhận,
cô cảm động rơi lệ, nói cả đời cô chưa bao
giờ nghĩ đến một gia tài như thế. Tôi
mừng quá, ít nhất có người hài lòng.
Trong suốt mấy ngày tôi ở đấy, cô luôn
đeo chiếc vòng trên tay, vừa vặn và hợp
với tuổi tác của cô, tôi thấy đẹp trên cổ tay
gầy nhưng trắng của cô. Nhưng sao khi
đeo trên tay của tôi thì tôi thấy tôi như
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 104
người tiền sử!
Trong lúc mọi người ăn uống nhộn nhịp,
tôi lẻn ra sân, tẩn mẩn đi ngắm những cây
bonsai tỉa khéo thật đẹp, các cháu nói là
từ đời ông nội để lại. Khi còn sống, năm
nào ông cũng được thành phố trao tặng
giải nghệ nhân. Nắng chan hòa trên mảnh
vườn thoang thoảng mùi hoa bưởi trắng
muốt, thèm quá, tôi nhón gót bứt một quả,
vào nhà tìm con dao gọt và ăn trừ cơm.
Bưởi ngọt và khô chứ không thật nhiều
nước như bưởi của Tây. Trong mấy hôm
tôi ở đấy, cây bưởi nào cũng bị tôi vặt trụi
những quả vừa chín tới. Lúc đầu mọi
người tưởng tôi làm khách không ăn cơm,
nhưng sau biết thế rồi chẳng ai thắc mắc
nữa. Vườn sau có mấy cây cà pháo cao
gần một thước, sai quả và hoa màu tim
tím dịu mắt. Tôi vặt một rổ con con vào
nhờ một cô em chồng muối sổi để chấm
mắm tôm, ăn với cơm trắng vừa thổi chín,
ngon tuyệt. Ai cũng lấy làm lạ. Gà vịt
không ăn, lại ăn cà pháo chấm mắm tôm!
Mùa này cây gấc cũng đơm hoa và đã lưa
thưa vài quả tròn nho nhỏ chỉ nhỉnh hơn
nắm tay một tí. Lần đầu nhìn thấy quả
gấc. Tôi định hái vào nhờ các cô thổi xôi,
nhưng đứa cháu nói quả còn non, chưa có
màu vàng cam của gấc.
Nói thiệt, nói chuyện ăn uống với tôi thì
chán lắm, vì tôi lười ăn mà. Nhưng tôi chỉ
mong đến hôm lên Hà Nội để đến tận nơi
ăn bánh tôm bờ hồ. Cũng chẳng phải tôi
thích gì món này, nhưng lần nào ở nhà mà
tôi đổ bánh tôm thì cũng bị nghe trì triết:
- Bánh tôm thì phải như bánh của ông X
hay bà Z gì đó ở bờ hồ ngoài Hà Nội thì
mới là đúng điệu!
Mà cái lúc mà cái người trì triết tôi ngồi
ăn bánh tôm ngoài bờ hồ Hà Nội thì tôi đã
có mặt trên cõi đời này đâu, để mà biết cái
ông X hay bà Z đó là ai, cái bờ hồ Hà Nội
nó như thế nào? Sau bao lần nước mắt
giọt ngắn giọt dài vì uất ức cãi cọ, cuối
cùng có chị bạn dạy tôi có 4 chữ thôi,
nhưng tôi áp dụng và thấy thật là hiệu quả,
đó là: “chỉ có thế thôi”. Point final!
Giờ đây, tôi đã được đặt chân lên đất ngàn
năm văn hiến, tôi chỉ ao ước được nhìn
tận mắt, ăn tận nơi, xem cái gọi là “đúng
điệu” ấy nó ngon đến cỡ nào để mà bắt
chước. Tôi có một cái tài là thứ gì chỉ ăn
một lần là tôi bắt chước nấu được ngay,
lại còn ngon hơn bản chính. Tôi cũng đi
ra tận bờ hồ, nhìn trai thanh gái lịch, và cả
nhà gọi mỗi người một đĩa bánh tôm, rồi
háo hức chờ đợi dưới tàng cây liễu rũ lơ
thơ trên mặt hồ gợn sóng. Một lúc sau,
người bán hàng đưa cho mỗi người chúng
tôi một đĩa bánh trên đó có 3... cục bột
chiên, trên mỗi cục bột là một con tôm
chiên nhỏ xíu, còn nguyên vỏ và cái đầu.
Tôi chưng hửng, thắc mắc hỏi người bán
hàng:
- Ông ơi! Tôi gọi bánh tôm Hà Nội đấy.
Ông ta trả lời nhát gừng:
- Thì chả bánh tôm Hà Nội thì là gì nữa?
Tôi lắc đầu:
- Bánh tôm thì phải có khoai lang thái sợi
thật nhuyễn, thật mỏng chiên lẫn với bột
và tôm chứ? Sao lại chỉ có bột thôi thế
này?
Ông ta bật cười:
- Cái bà này chắc ở đâu đến hẳn? Trong
thời bao cấp, dân chúng ăn khoai đã sợ
lắm rồi, bây giờ cho họ ăn khoai nữa thì
tôi dẹp tiệm!
Chưa kể đến cái màn nước mắm nữa.
Chấm vào chỉ có vị chua và mặn, cứng
ngắc, không thể nào so sánh với nước
chấm miền Nam, ngọt và dịu hơn nhiều,
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 105
với màu đỏ thắm của ớt tươi giã nát trộn
vào, thêm vài tép chanh hãy còn bọng
nước nổi lềnh bềnh trên mặt. Ở nhà, tôi
vẫn hay cãi nhau với Mẹ, là nước mắm
pha kiểu miền Bắc ăn bao giờ cũng
“cứng” hơn kiểu miền Nam. Mẹ dĩ nhiên
là không đồng ý, vì bất cứ thứ gì mà
không phải là cái món Bắc kỳ… cục của
Mẹ thì Mẹ gọi là “của khỉ” hết. Thế cho
nên, cuộc đời Mẹ đã bị thiệt thòi nhiều,
cái gì lạ cũng nhất định
không chịu thử, có dí vào
bát thì cũng dãy nảy lên
“úi giời, Mẹ không ăn cái
của khỉ ấy”.
Sau cái bữa bánh tôm
hôm ấy, tôi đắc thắng tìm
cách trả thù cho bõ ghét,
về đến Canada, tôi cũng
lấy bột ra chiên... 3 cục
bột, nhưng hào phóng để
tới 3 con tôm còn vỏ trên
mỗi cục. Nước mắm thì
tôi cho chút dấm, chút
nước mắm hòa với chút
nước, dĩ nhiên là tôi đã lén để riêng cái
chén nước mắm của tôi ra. Khi dọn ra bàn,
tôi nói:
- Bánh tôm thì phải như bánh ở bờ hồ
ngoài Hà Nội thì mới là đúng điệu!
Thì ra, cái “bệnh kỷ niệm” hay cái “bệnh
hoài niệm quá khứ” nó làm cho con người
dễ phê phán sai lệch lắm. Cứ tiếc nhớ cái
thời một xu không dính túi, chắc cả bao
nhiêu tháng mới được xơi đĩa bánh tôm
bên bờ hồ, thì làm gì mà chả thấy ngon
tuyệt vời? Thưở còn đi học, khi được một
ly đậu đỏ bánh lọt tôi cũng thấy mê tơi,
mấy chục năm sau về ăn lại thì thấy chán
ơi là chán, còn thua xa ly đậu đỏ bánh lọt
tôi làm bên này cho các con ăn.
Cũng như khi tôi đọc sách tả đất ngàn
năm văn vật thì thấy sao nó thơ mộng thế,
đẹp đẽ thế. Về đến nơi thì cũng thấy sách
vở chưa hẳn là chân lý. Tháp Rùa vẫn
nằm đó trơ gan cùng tuế nguyệt, có lẽ xưa
kia cũng nên thơ lắm, bây giờ thì nhìn từ
bờ bên này sang thì bờ bên kia thấy toàn
là nhà cửa, cao ốc chen lẫn nhau, cái cao
cái thấp, trông cái tháp lọt tỏm vào giữa
những kiến trúc mới chen lẫn cũ đàng sau.
Xưa kia “thướt tha bên hồ liễu thưa” thơ
mộng dường nào, bây giờ cũng vẫn còn
cây liễu đong đưa trong gió nhưng tôi
không nhìn thấy được màu xanh mơn
mởn của màu liễu xanh, mà chỉ thấy cành
và lá cùng một màu nâu, màu của bụi.
Nhưng tôi lại thích nhìn hồ Gươm vào
buổi tối. Mùa này gần Tết, hồ Gươm
giăng mắc ánh đèn, buổi tối ra đường
người đi chen chân không lọt. Khách sạn
chúng tôi ở không xa mặt hồ là bao, mà
phải nhích từng bước mất gần 45 phút
mới ra đến bờ hồ, dừng lại ăn một ly kem,
nhìn ông đi qua bà đi lại. Ban đêm, không
nhìn thấy màu nâu bẩn của lá, tôi thấy cây
liễu ven bờ đẹp hơn nhiều dưới ánh đèn
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 106
mờ ảo.
Tôi thắc mắc hỏi một người địa phương
thì được giải thích rằng từ sau ngày thống
nhất, thành phố được tu bổ và xây cất
triền miên, cho nên đi đâu cũng toàn bụi.
Dù trời có mưa thì một trận mưa cũng
không ăn thua gì, phải sau mấy trận mưa
mới gột sạch được bụi bậm bám trên cây
và mới thấy được màu xanh của lá, dù chỉ
là màu xanh nhàn nhạt vì lá bị bụi che,
không hấp thụ được trọn vẹn ánh nắng
mặt trời. Nhưng người ở đấy thì họ quen
nhìn như thế rồi, chưa ai thắc mắc là tại
sao lá không có màu xanh. Thành phố
thưa thớt cây cối, vì cửa hàng xây
san sát mặt đường, chắc là họ phải
chặt bớt cây. Chỉ cần bên lề
đường có một chút khoảng trống
thôi, thì cũng đã đủ chỗ cho một
gánh hàng nho nhỏ với vài chiếc
ghế thấp chung quanh. Cho nên
cây cối đã trở thành một thứ xa xí
phẩm. Chặt được cây nào thì lại
được thêm một chỗ. Ngay cả cái
công trình kiến trúc được người
ngoài ấy tôn thờ là “cái năng của
Bác” mà chung quanh cũng cứ
trống trơn, chẳng thấy cây cối gì ngoài
mấy cái cây cảnh trồng trong chậu, kiến
trúc thì vuông chằn chặn thành một khối
hình chữ nhật, trông thật là trơ trẽn làm
sao, một quan niệm mỹ thuật mà tôi
không tài nào hiểu được.
Tôi được xe xích lô chở đi
ngang qua đấy. Bác phu xe
hỏi:
- Nếu cô vào thăm “năng”,
thì tôi ở ngoài này đợi. Bao
nâu cũng được.
Tôi lắc đầu, bảo bác phu xe
cứ đi thẳng đi. Lúc còn
sống, Bác cũng đâu có đẹp
trai gì, tôi còn chả thiết
nhìn, vào nhìn cái xác chết
làm gì. Tôi mà vào thì chưa
chắc gì đã ra được vì cái tật
hay phát biểu “ninh tinh”
của tôi, chắc thế nào cũng bị công an
“úm” thôi, bác sẽ mất toi tiền công chở tôi
từ sáng đến giờ.
Hà Nội có những ngôi chùa cổ thật đẹp,
nơi đâu cũng đang được trùng tu, ngộ một
cái là các ngôi tượng được sơn lại đỏ chót,
trông thiếu tự nhiên. Các chỗ thiếp vàng
thì dùng màu vàng thật chói, lộng lẫy một
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 107
cách giả tạo. Cầu Thê Húc cũng được tân
trang, sơn màu đỏ chói, nước sơn bóng
lưỡng dưới ánh mặt trời, nhìn từ xa cũng
đã thấy bóng!
Tôi cũng đi qua ba mươi sáu phố phường,
nơi đâu cũng đập phá và xây cất. Cứ đi
một con phố thì đến bao nhiêu căn nhà
đang đập đập, phá phá, bên cạnh đó thì
căn khác đang được trét tường, xây cửa.
Rác thì cứ đổ ngập ra hè phố, không để
trong thùng, một điều thật dễ làm nhưng
lại không thực hiện được ở đây, vì anh
nào thò cái thùng rác ra thì sáng hôm sau
đã biến mất. Nơi đâu cũng đang kiến thiết
và xây dựng. Mạnh ai nấy làm, cứ hễ nhà
nào có tiền thì đập chỗ này làm lại chỗ
kia, không có một phương án nào cho
đồng nhất. Hà Nội như một bức tranh
chấm phá đủ kiểu, những cao ốc kiến trúc
hiện đại cũng thật nhiều, bên cạnh thì
cũng không ít những căn nhà dột nát chắc
từ cả thế kỷ nay không được tu bổ.
Một người bác của tôi ở Hà Nội phân tích:
- Hà Nội phải kiến thiết cho bắt kịp miền
Nam, mà lại phải bắt đầu từ con số không,
vì đã bị tàn phá nhiều trong chiến tranh,
cho nên muốn bắt kịp đà tiến triển của
miền Nam, chính phủ phải kiến thiết miền
Bắc theo đà nhanh gấp mấy lần trong
Nam. Đấy là lý do của những thay đổi
theo tốc độ hỏa tiễn của Hà Nội. Những
người ở hải ngoại họ về năm này, vài năm
sau về lại thì chính họ đã thấy đổi khác
rồi. Chính vì thế mà đâu đâu đi đến cũng
thấy đào bới, xây cất, bụi cứ mịt mù bay
bám lên những cành, những lá cây hiếm
hoi còn sót lại.
Tôi ước mơ một ngày mưa xứ Bắc, mưa
thật to cho đến mát cả tâm hồn, cho tôi
được nhìn tận mắt màu lá quê hương,
xanh tươi và hy vọng. Nhưng cho đến
ngày tôi bước chân trở lên phi cơ để vào
Huế, màu lá quê tôi vẫn chỉ là một màu
nâu thăm thẳm, buồn thảm như thân phận
quê hương.
Hải Phong
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 108
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 109
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu - Đặng Vũ Vương (Anh ngữ) 110
N
gày ra đi cha ẵm trên tay
Con mới khôn ba tháng một
ngày
Con không biết nhà tan, nước mất
Không biết mình sao lạc phương
Tây.
Tên con, cha phải đặt thêm tên
Cho người dễ gọi, người nghe quen
Nhưng con nhớ: người, người ta
trọng
Là người không chối bỏ tổ tiên.
Con lớn lên quê người ấm no
Đất yên vui tươi thắm bốn mùa
Con đâu biết quê mình gấm vóc
Chỉ nghèo hèn từ độ can qua.
Con hãy là gương sáng cần cù
Hãy là khiêm nhượng, hãy là nhu
Nhưng con phải giữ niềm kiêu hãnh
Làm người thua thiệt có suy tư.
Con sống đời bình đẳng, tự do
Tâm trí con không ngại, không ngờ
Con đâu biết tự do, bình đẳng
Ở xứ mình như nắng chiều mưa.
Nơi chốn ganh đua để sống còn
Trường đời con hãy nhớ luôn luôn:
Thù con chưa chắc thù của bạn
Bạn bạn con chưa hẳn bạn con.
Con có quyền mong, có quyền chờ
Có quyền rất thực, có quyền thơ
Con đâu biết những gì con hưởng
Là những gì đất nước đang mơ.
Nếu con thấy đêm đen mịt mùng
Con đừng ngồi đó để mong trăng
Đừng ngồi đó chờ ai nhóm lửa
Tự đốt, con ơi, ngọn nến hồng.
Trang Châu
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu - Đặng Vũ Vương (Anh ngữ) 111
O
n the departing day I carried
you in my arms
You were a suckling of 3 months
plus one day
Unaware of shattered home and lost
country
And of why we ended up settling in
the West.
You grow up in warm comfort in a
foreign country
In a peaceful land with four
gleaming seasons
Do you know that our magnificent
ancestral country
Became poor and weak only since
that catastrophe.
You are living a life of liberty and
equality
Your mind totally free of fears and
doubts
Do you know that in our ancestral
country
These entities are like the sun in a
rainy dusk
You have the right to hope, the
right to expect
The right of full truth, the right of
lyric poesy
Do you know these rights that you
take for granted
Are the stuff that your old country
is dreaming of
To your name I had to add a new
surname
To make it less foreign and easier
to call you
Remember the persons that people
do respect
are the ones who don't disavow
their ancestries
Make yourself into a paragon of
diligence
Remaining modest and staying
humble
But you must maintain the pride of
being a person
who in losses and defeats keeps
himself thinking
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu - Đặng Vũ Vương (Anh ngữ) 112
The places where daily you struggle for survival
are schools of life where always you ought to remember
Your enemies are not necessarily your friends 's enemies
And the friends of your friends are not exactly yours
If you notice the night plunged in total darkness
Don't sit there wishing for the moon in the sky
Don't sit there waiting for someone to start a fire
My child, with your own hands do light up a candle
Translated by Đặng Vũ Vương
from Trang Châu’s poem
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Trang Châu - Đặng Vũ Vương (Anh ngữ) 113
Mọi chi tiết xin liên lạc
Trang Châu
lvtrangchau@yahoo.ca
Thực hiện & Trang trí
Dziïn Höìng Designs
dzienhongdesigns@hotmail.com
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Liên lạc 114